2.4.5 Dùng danh nghĩa "tự tôn" để phóng đại chủ nghĩa coi mình là trung tâm 2.5 Các thủ đoạn phức tạp và quanh co của ma quỷ để thâm nhập giáo dục 2.5.1 Quyền khống chế giáo dục trung học và tiểu học ở Mỹ không ngừng thay đổi 2.5.2 Công đoàn giáo viên khích lệ tầm thường và cản trở cải cách Tiếng nói giúp con người hiểu nhau hơn và hiểu chính mình hơn. Tiếng nói đóng một vai trò nhiệm màu trong sự phát triển của xã hội và tiến hóa của loài người. Suốt 77 năm qua, hàng ngàn phóng viên, biên tập viên, cán bộ nhân viên Đài Tiếng nói Việt Nam qua nhiều thế hệ Trên đây là những câu đầu tiên trong cuốn nhật ký của người lính đặc nhiệm người Nga Pavel Filatyev, người không còn muốn giữ im lặng và không muốn chiến đấu trong một cuộc chiến mà anh coi là vô nghĩa. Anh ta đã công khai những trải nghiệm ngoài mặt trận của mình. 4. Một lời cảm ơn có lẽ sẽ không bao giờ là đủ cho những gì mọi người đã giúp đỡ em. Em sẽ giữ mãi nó trong tim mình. Cảm ơn mọi người. 5. Là lính mới và toàn làm việc với những người mới sẽ chẳng dễ dàng gì nếu như không có các bạn ở đó. Đoạn video về một chàng lính nhập ngũ chứng kiến người yêu cũ của mình tổ chức đám cưới rình rang mới đây chính là những trường hợp cụ điển hình như thế. Và hình ảnh người lính trong chiếc áo xanh bộ đội lau lệ khi nhìn nhà cô bạn gái cũ theo chồng trong ngày Mẹ đã nói Triệu gia là một nhà tốt còn gì, người ta chỉ muốn tìm người tốt tính nếu không đã không vào tận trong núi chúng ta". Bà càng nghe con gái nói càng thấy có lý, cũng may con gái bà không hồ đồ, nếu không thì hôn sự này không thành. Đội trưởng: (nói với người đầu hàng) Thực hiện kiểm tra. Lính #1: Tuân lệnh. (Đội trưởng rút ra một con dao và đâm vào vai người lính. Anh ta không phản ứng.) Đội trưởng: (rút dao) Chữa trị vết thương đi. (Người lính gật đầu. gQJlU. Đọc hiểu Một người lính nói về thế hệ mình - Thanh Thảo​ Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu ngày chúng tôi đi Các toa tàu mở toang cửa Không có gì phải che giấu nữa Những thằng lính trẻ măng Tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ Những thằng lính trẻ măng Quân phục xùng xình Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ Con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ Và dài muốn đứt hơi Hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ Thế hệ chúng tôi Hiệu còi ấy là một lời tuyên bố Một người lính nói về thế hệ mình, Thanh Thảo, Tinh hoa thơ Việt, NXB Hội Nhà văn, 2007, tr. 141 Câu 1. Xác định thể thơ, phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích. Câu 2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là ai? Được miêu tả như thế nào? Câu 3. Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong những câu thơ sau Những thằng lính trẻ măng Quân phục xùng xình Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ Câu 4. Theo em, lời tuyên bố được nhắc đến trong câu thơ cuối là lời tuyên bố gì? Câu 5. Nhận xét về vẻ đẹp của những người lính trẻ trong đoạn trích trên. Câu 6. Nêu suy nghĩ về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước. Câu 7. Viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về sự cần thiết phải lựa chọn lẽ sống đúng đắn đối với thế hệ trẻ ngày nay.​ Câu 1 - Thể thơ tự do - Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật - Phương thức biểu đạt chính Biểu cảm Câu 2. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là chúng tôi . "Chúng tôi" được miêu tả là những người lính trẻ măng, tinh nghịch, quân phục xùng xình, tiếng ồm ồm. Câu 3. - Biện pháp tu từ So sánh người lính trẻ măng - như chồi như nụ - Tác dụng + Tăng sức biểu đạt, sức gợi hình, gợi cảm của câu thơ + Khắc họa sinh động hình tượng những người lính trẻ, tràn đầy sức sống, lạc quan yêu đời + Thể hiện niềm yêu mến tự hào của tác giả đối với những người lính thế hệ mình. Câu 4. Lời tuyên bố được nhắc đến trong câu thơ cuối là lời tuyên bố về lòng yêu nước, về quyết tâm đánh đuổi ngoại xâm, lời tuyên bố về sự hi sinh, cống hiến, về tinh thần sẵn sàng chiến đấu.. Câu 5. Nhận xét về vẻ đẹp của những người lính trẻ trong đoạn trích trên Những người lính trong đoạn trích trên là những chàng lính còn trẻ tuổi, đầy sức sống, tâm hồn lạc quan, yêu đời. Họ cũng là những con người yêu nước, sống có lí tưởng, sẵn sàng cống hiến, hi sinh vì đất nước. Câu 6. Nêu suy nghĩ về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước - Học tập để trở thành người có ích cho xã hội, cho đất nước - Rèn luyện đạo đức, nhân cách để trở thành công dân tốt - Tích cực tham gia lao động sản xuất, tham gia các hoạt động cộng đồng - Sống có trách nhiệm với bản thân, với xã hội - Có ý thức bảo vệ, giữ gìn văn hóa dân tộc - Sẵn sàng làm nghĩa vụ quân sự khi Tổ quốc cần.. Câu 7. Có thể triển khai theo hướng sau - Lựa chọn được lẽ sống đúng đắn sẽ là động lực, nền tảng, kim chỉ nam để giúp người trẻ vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống và hướng đến thành công - Lựa chọn được lẽ sống đúng đắn giúp thế hệ trẻ có lối sống, mục đích sống tốt đẹp, có những quyết định và hành động đúng đắn để góp phần cống hiến cho xã hội.. - Giúp tuổi trẻ sống có ý nghĩa, lạc quan yêu đời và tìm được hạnh phúc thực sự. - Giúp khẳng định nhân cách và phẩm giá con người, được người khác tôn trọng, yêu mến, tin tưởng.. - Góp phần đẩy lùi cái xấu, cái ác trong xã hội, xây dựng một xã hội phát triển, lành mạnh, nhân văn.. Xem tiếp bên dưới.. Chỉnh sửa cuối 3 Tháng tư 2023 ĐỀ 2 Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu ngày chúng tôi đi Các toa tàu mở toang cửa Không có gì phải che giấu nữa Những thằng lính trẻ măng Tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ Những thằng lính trẻ măng Quân phục xùng xình Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ Con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ Và dài muốn đứt hơi Hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ Thế hệ chúng tôi Hiệu còi ấy là một lời tuyên bố Một người lính nói về thế hệ mình, Thanh Thảo, Tinh hoa thơ Việt, NXB Hội Nhà văn, 2007, tr. 141 Chọn đáp án đúng Câu 1. Thể thơ của văn bản trên không giống với thể thơ của văn bản nào sau đây? A. Đất nước - Nguyễn Đình Thi B. Lính đảo hát tình ca trên đảo - Trần Đăng Khoa C. Mùa hoa mận - Chu Thùy Liên D. Bảo kính cảnh giới 43 - Nguyễn Trãi Câu 2. Đoạn trích trên viết về đề tài A. Người lính B. Con tàu C. Chiến tranh D. Hòa bình Câu 3. Chúng tôi trong đoạn trích là ai? A. Những nữ thanh niên xung phong D. Những anh dân quân dũng cảm C. Những chàng lính trẻ D. Những người vợ trẻ hậu phương Câu 4. Những chàng lính trong đoạn trích được miêu tả như thế nào? A. Trẻ măng, tinh nghịch B. Quân phục xùng xình C. Tiếng ồm ồm mới vỡ D. Cả A, B, C Câu 5. Những câu thơ nào sử dụng biện pháp tu từ so sánh? A. Hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ/ Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ B. Và dài muốn đứt hơi/Hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ C. Những thằng lính trẻ măng/ Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ D. Các toa tàu mở toang cửa/ Không có gì phải che giấu nữa Câu 6. Biện pháp tu từ trong câu Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ là A. Ẩn dụ B. So sánh C. Nhân hóa D. Điệp từ Câu 7. Hình ảnh chồi, nụ trong những câu thơ Những thằng lính trẻ măng - Quân phục xùng xình - Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ gợi lên điều gì? A. Cảnh thiên nhiên đẹp, đầy sức sống B. Bức tranh mùa xuân nhiều chồi, nụ C. Sức sống, tuổi trẻ của những chàng lính D. Nỗi nhớ quê hương của những chàng lính Câu 8. Vẻ đẹp của những người lính trẻ trong đoạn trích trên A. Bất khuất, dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu vì nhiệm vụ quốc tế cao cả B. Trẻ trung, đầy sức sống, lạc quan, yêu đời, yêu đất nước C. Tâm hồn lãng mạn, mộng mơ, rất đỗi hào hoa, thanh lịch D. Tinh thần thép kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt. Câu 9. Tình cảm, thái độ của nhà thơ thể hiện trong đoạn trích là A. Tiếc nuối cho những con người còn quá trẻ đã phải hi sinh B. Xót xa cho những vất vả, gian truân mà người lính đã trải qua C. Ngợi ca tinh thần hi sinh anh dũng của người lính D. Ngợi ca vẻ đẹp hồn nhiên, trẻ trung, yêu đời, yêu đất nước của người lính. Câu 10. Cảm hứng chủ đạo của đoạn trích là A. Cảm hứng bi tráng B. Cảm hứng ngợi ca, tự hào C. Cảm hứng phê phán D. Cảm hứng bi lụy Câu 1. D. Bảo kính cảnh giới 43 - Nguyễn Trãi Câu 2. A. Người lính Câu 3. C. Những chàng lính trẻ Câu 4. D. Cả A, B, C Câu 5. A. Hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ/ Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ Câu 6. B. So sánh Câu 7. C. Sức sống, tuổi trẻ của những chàng lính Câu 8. B. Trẻ trung, đầy sức sống, lạc quan, yêu đời, yêu đất nước Câu 9. D. Ngợi ca vẻ đẹp hồn nhiên, trẻ trung, yêu đời, yêu đất nước của người lính. Câu 10. B. Cảm hứng ngợi ca, tự hào thanh thảo Kỷ niệm 65 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, 1957-2022 Vanvn- Nhớ buổi sáng ngày cách đây vừa tròn 1 năm, tôi cùng em Liên-cháu ruột nhà văn Nguyễn Chí Trung, và cháu Mai Anh – trợ lý cho nhà văn Nguyễn Chí Trung những năm cuối đời của ông, đi grab ra Nghĩa trang TPHCM ở Thủ Đức viếng mộ ba người mà tôi và các cháu đều yêu quí. Đó là nhà văn Nguyễn Chí Trung, người anh tinh thần và là người thủ trưởng cũ của tôi ở Trại sáng tác Văn học quân khu Năm, nhà thơ Thu Bồn, vừa là anh vừa là bạn thân thiết của tôi cũng ở Trại đó, và cuối cùng, là ông Bảy Dự tên thật là Nguyễn Võ Danh, một thủ trưởng cũ của tôi ở Ban Binh vận TW Cục. Ông Bảy Dự hồi đó là phó ban thường trực Ban Binh vận TW Cục, và là một “trùm tình bảo” Việt Cộng. Họ là 3 Việt Cộng thứ thiệt, 3 Việt Cộng thứ dữ luôn, và đều là những người đã vào sinh ra tử trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tôi yêu họ, như yêu những người thân thiết của mình, và tôi luôn lấy họ làm tấm gương để noi theo trong suốt cuộc đời mình. Nhà thơ Thanh Thảo Với tôi, ông Nguyễn Chí Trung là một tấm gương sáng chói của lòng yêu nước, yêu nhân dân, dám hy sinh vì Tổ quốc, và tuyệt đối trong sạch suốt cuộc đời mình. Chỉ như thế, ông Trung đã là người anh hùng trong lòng tôi. Với nhà thơ Thu Bồn, thì cứ nhắc đến anh, lại vừa mắc cười vừa muốn khóc. Vì anh là một người lính-nhà thơ toàn tòng, một người dám sống bằng lòng tốt, bằng ý chí quyết sống, bằng tình nhân ái và bằng cả bản năng tuyệt vời của một người đàn ông chính trực biết yêu phụ nữ hết mình. Biết yêu phụ nữ hết mình, chẳng phải là một phẩm chất mà bất cứ người đàn ông nào cũng ngưỡng mộ, bất cứ người phụ nữ nào cũng rất dễ xiêu lòng đó sao? Còn với ông Bảy Dự – một thủ trưởng cấp cao của tôi hồi đánh Mỹ, thì tầm nhìn của ông, cách sống giản dị hơi ẩn mình của ông, những chiến tích ông đã làm trong lặng lẽ và rất ít người biết, đã đưa ông thành một idol mà tôi ngưỡng mộ, dù chưa hề thân thiết với ông. Nhưng ông Bảy Dự rất biết người, và ông quí tôi, điều ấy tôi biết. Ông quí nhưng không nói ra, chỉ thể hiện qua những cách ứng xử vào những lúc tôi gặp khó khăn nhất. Đó là khi bài thơ “Một người lính nói về thế hệ mình” của tôi vào năm 1974 đã bị đánh tả tơi, lên bờ xuống ruộng. May mà lúc ấy tôi đang sống và làm công việc một nhà báo ở Ban Binh vận, chứ nếu tôi ở Ban Văn nghệ TWC, chắc tôi khó sống lắm. Ông Bảy Dự đã mời tôi lên ngôi nhà lợp lá trung quân nhỏ bé của ông ở giữa rừng, và đã trao đổi chân tình với tôi về… thơ tôi. Đó là điều khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi biết, ông Bảy Dự là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, chính trị chuyên nghiệp, nhưng không chuyên về thơ, và chúng tôi đã nói chuyện với nhau vừa thẳng thắn vừa chân tình. Tôi không nhận bất cứ “khuyết điểm” nào trong bản thảo tập thơ đầu tay “ Dấu chân qua trảng cỏ” của mình, nhưng tôi cảm ơn ông Bảy Dự vì tình cảm chân thành của ông đối với một người lính trẻ, một nhà thơ trẻ còn chưa được mấy ai biết tới như tôi. Khi về Sài Gòn sau ngày có lần tôi gặp một anh lái xe lam là người Bắc di cư bên chợ Cũ, được ngồi uống bia với anh, được anh kể mình có họ hàng với chị Phan Thị Quyên – vợ anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi. Chợt tôi cảm thấy như được gặp tất cả những bà con người Bắc đã di cư vào Nam năm 1954, được lắng nghe những tâm tình của họ, đồng cảm với nỗi nhớ thương của họ về quê hương miền Bắc, nơi họ đã ra đi từ 21 năm trước. Có dân tộc nào như dân tộc chúng ta, đã bao lần chia ly rồi đoàn tụ, đã trải qua bao “cuộc bể dâu” mà lòng khôn nguôi nhớ về quê cha đất tổ. Một dân tộc như thế không thể không Thống Nhất, không thể không được sống trong Hòa Bình. Có thể ở một nơi nào trên trái đất, có dân tộc phải chia ly hơn 60 năm và hơn thế, nhưng ở Việt Nam thì không. Chia ly 21 năm với dân tộc chúng ta đã là quá dài. Không một ai mong cảnh chia ly đau lòng ấy. Nếu chúng ta hiểu ngày là ngày hiện thực hóa khát vọng thống nhất của một dân tộc, thì chúng ta sẽ dịu lòng hơn với bao trắc trở ở phía trước. Nhưng con đường dân tộc Việt Nam đã đi, đang đi và sẽ đi vẫn là con đường của thống nhất và hòa hợp dân tộc. Và tôi nhớ, cái lần trong rừng được trò chuyện thân mật với ông Bảy Dự, ông Bảy đã có một phút trầm ngâm khi nói với tôi “ Dù phải chờ đợi tới mấy thế hệ để thấy dân tộc chúng ta thực sự hòa hợp, chúng ta vẫn kiên nhẫn chờ.” Những năm ấy, tôi là phóng viên chiến trường thuộc ban Binh vận TW Cục, và chuyên viết về đề tài hòa giải, hòa hợp dân tộc cho hai Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh Giải phóng. Tôi nghe lời tâm tình của ông Bảy Dự, và tôi hiểu con đường đi tới thực sự hòa hợp dân tộc còn xa xôi và vô vàn khó khăn, nhưng chúng ta chọn con đường ấy, và chung thủy đi trên con đường ấy. Những ngày tháng Tư của bất cứ năm nào sau năm 1975 đều khiến tôi có những phút bồi hồi khi nhớ lại. Nhiều lúc có cảm giác mình như một dề lục bình trôi trên sông Vàm Cỏ Đông, một dề lục bình bé nhỏ nhưng luôn biết anh em của mình, những ai thân thiết với mình, và những thanh thản khi mình trôi chảy cùng dòng sông. Chưa kể, lục bình lại vừa trôi vừa nở hoa, như tôi từng làm thơ trên Trường Sơn hay qua Đồng Tháp Mười. Mùa Thống Nhất luôn là mùa xúc cảm nhất đối với tôi, một người đã phải xa cha mẹ để vượt Trường Sơn, và sống 5 năm ở chiến trường Nam Bộ. Biết bao là kỷ niệm với bạn bè, đồng đội. Có một người bạn thân của tôi ở chiến khu miền Đông, sau giải phóng anh và gia đình vượt biên sang định cư tại Australia. Nhưng không bao giờ anh quên bạn bè ở quê nhà, quên những tháng năm chúng tôi đã đồng cam cộng khổ với nhau. Mới đây, bạn tôi gọi điện về cho tôi, và nói “ Những năm anh em mình ở Rừng miền Đông là những năm đẹp nhất trong cuộc đời mình.” Tôi đã khóc khi nghe anh nói vậy. Đúng đó là những năm tuổi thanh xuân đẹp nhất của chúng tôi, “Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn” thơ Chế Lan Viên đi chăng nữa. Chúng tôi đã sống đã dâng hiến và đã chịu đựng cùng với nhân dân với đất nước mình. Mùa Thống Nhất với chúng tôi là khát vọng cao nhất trong những năm tháng chiến tranh. Nhớ những ngày tháng tư năm 2021, tình cờ tôi đọc được bài viết như muối xát của một người trẻ gốc Việt sinh năm 1982 đang sống và làm việc tại Mỹ. Anh kể về cái cảm giác không thể chịu nổi khi bị một người đàn bà da trắng xa lạ đột nhiên chửi thẳng và nhổ thẳng vào mặt mình ngay tại một phi trường ở Mỹ vào tháng Cơ sự chỉ vì anh là người gốc Á, một người gốc Việt sinh ra tại Mỹ và bao năm qua đã chăm chỉ làm việc hết mình vì nước Mỹ, nơi anh nghĩ “giấc mơ Mỹ” của mình đang thành hiện thực. “Nhưng tôi đã sai khi nghĩ vậy.” Cơ sự, cũng chỉ vì anh là một thanh niên gốc Việt, dù đầy tâm huyết và không thiếu tài năng. Tôi đã lặng người rất lâu khi nghĩ tới những người đồng bào của mình, những người không chỉ lớn lên trong chiến tranh, mà còn được sinh ra trong hòa bình, lớn lên trong hòa bình, dù ở một đất nước cách xa Việt Nam tới nửa vòng trái đất. Nguồn gốc dân tộc là điều không một ai có thể phủ nhận. Nhưng người Việt Nam, dù ở bất cứ đâu, làm những công việc lao động lương thiện nhỏ nhoi nào, cũng là những người không dễ cho bất cứ ai có thể bắt nạt mình, kỳ thị mình. Người Việt luôn hiếu hòa, thậm chí luôn biết chịu đựng, luôn “chín bỏ làm mười” trong nhiều mối quan hệ với người ngoài, nhưng chảy sâu trong huyết quản của họ là dòng máu Việt của Trần Hưng Đạo, của Nguyễn Trãi, của Quang Trung Nguyễn Huệ. Họ bất khuất một cách tự nhiên, và hiếu hòa một cách còn tự nhiên hơn. Có những điều do lịch sử để lại mà chúng ta luôn phải biết gìn giữ. Nhưng cũng có những điều mà chúng ta cần phải thay đổi, nhất là những điều người Việt cần thay đổi khi nhìn nhận về nhau. Vào ngày ngay tại dinh Độc Lập, tướng Việt Cộng Trần Văn Trà-một người đồng hương lẫm liệt của tôi-đã nói với tướng Dương Văn Minh khi ông đang là và sắp không còn là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa “Người Việt Nam chúng ta không ai thắng ai thua trong cuộc chiến tranh này. Kẻ thua là Mỹ, và dân tộc chúng ta là một dân tộc phải được sống trong hòa bình và hòa hợp dân tộc.” Bây giờ thì những người Mỹ tử tế đã là bạn của Việt Nam chúng ta, dù cuộc làm bạn này có chậm tới đâu và đau đớn tới đâu. Nhưng đã là bạn tốt. Và hy vọng là một tình bạn chân thành. Vậy thì con đường đi tới hòa hợp và hòa giải dân tộc của người Việt phải là con đường tất yếu của cả dân tộc Việt Nam, không thể khác. THANH THẢO Báo Văn Nghệ Xem thêm Họa sĩ – nhà thơ Lê Tiến Vượng, lãng tử hồn quê Hội Nhà văn Việt Nam triển khai công tác văn học 2023 và kết nạp hội viên mới Ngước nhìn “Đất nước” của Trần Vàng Sao Giang ơi! Về thôi em – Tản văn dự thi của Phạm Văn Tấn Nỗi buồn Bảo Ninh – Kỳ 1 Với chủ đề về Người Lính, trên cũng đã có nhiều chùm thơ nói về Người Lính rồi. Hôm nay, Thanh Biên xin tiếp tục tổng hợp những bài thơ tự sáng tác mới nhất viết về Người Lính với lời thơ ca ngợi sự anh dũng hi sinh, lòng trung thành với Tổ quốc và tình cảm chân thành & chung thủy đối với tình cảm riêng tư. Chùm thơ ca ngợi Người Lính ảnh internet Tuyển chọn thơ hay viết về người Lính cụ Hồ và tình yêu quê hương đất nước gắn liền với tình yêu đôi lứa..01. ⇧THƯ TÌNH - Thơ Hân PhanĐời người lính rày đây, mai đó Chuyện dầm sương, mưa gió thường ngày Đêm về nhìn áng mây bay Nhớ em, nỗi nhớ càng ray rứt lòng Ngoài biên giới ngoại xâm rình rập Nghiệp quân hành luyện tập thường xuyên Để cho biển đảo bình yên Ngày đêm canh gác trấn biên giữ đồn Giữa biển cả sóng dồn dập vỗ Trên bầu trời mưa đổ, sương sa Vọng canh không bóng người qua Nhớ em, nỗi nhớ diết da dường nào Nhớ em, biết khi nào hết nhớ Đời chiến binh không thể bỏ đồn Còn nhà, còn nước, còn non Anh còn giữ trọn sắc son lời thề. Bài thơ song thất lục bát viết người Lính hải đảo thật nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Người Lính hải đảo luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ canh giữ bình yên biển đảo cho Tổ Quốc, thế nhưng, trong lòng vẫn luôn nhớ về người yêu nơi quê nhà với tình cảm chân thành, son sắc.. 02. ⇧VỀ VỚI MẸ THÔI - Thơ Cao Hùng CườngHoà bình rồi, ta về với mẹ thôi... Con đang đợi, vợ đang chờ bên cửa Bên gia đình, đón bao niềm vui nữa Cùng xóm làng, nhen ngọn lửa tình người Hoà bình rồi, đời lại rộn tiếng cười Cuộc sống yên vui, sáng ngời đôi mắt Đồng đội tìm nhau, niềm vui gặp mặt Ta lại cùng nhau, hái nhặt yêu thương Ôi hoà bình, hai tiếng tưởng xa xôi Đến bất chợt, niềm vui sao nhanh quá Nhưng mất mát, đau thương không thể xoá Theo mãi trong đời, người lính chúng ta... Xin đặt lên mộ Đồng đội, những vòng hoa Những chiến công, dành các anh tất cả Cuộc sống sau này, bộn bề vất vả Không thể quên, người đã ngã hôm nay... Theo như chia sẻ của tác giả, đây là bài thơ tâm sự của người Lính sau chiến thắng 30/4/1975. Đời Lính là vậy, khi có biến luôn sẵn sàng ra trận để góp sức chống giặc xâm lăng, đến khi thời bình thì quay về bên Mẹ & gia đình của mình. Tiếp tục công việc thường ngày để xây dựng cuộc sống gia đình, phát triển kinh tế. Và cũng không quên những người đồng đội đã hi sinh vì Tổ Quốc.. Tình Yêu Người Lính ảnh internet 03. ⇧CÓ MỘT THỜI NHƯ THẾ - Thơ Trần Bá CănCó một thời như thế chẳng hề quên Là người lính- người quân nhân cách mạng Dẫu chiến tranh nhưng tâm hồn lãng mạn Dấu tâm tình trong đáy cóc ba lô Có một thời cháy bỏng những mùa khô Rừng Tây Nguyên cây trút tàn chiếc lá Còn vũng nước cũng tranh nhau vội vã Thú với người tranh thủ uống thay nhau Rất nhiều lần nén chặt nỗi buồn đau Khi đồng đội máu tuôn trào gục xuống Trong chiến tranh dẫu rằng không ai muốn Vì biên cương mà chấp nhận hy sinh Có một thời vì tổ quốc quên mình Vẫn nhớ thương một bóng hình kiều nữ Vẫn khát khao một tình yêu lắm chứ ! Bởi bản năng tạo hoá đã ban rồi Có một thời để nhớ mãi trong tôi Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng Súng chắc tay- thời đó mãi sao quên Có một thời... Đồng đội mãi gọi tên....! Bài thơ tám chữ khắc họa hình ảnh người Lính dũng cảm, kiên cường nhưng tâm hồn cũng rất lãng mạn. Thơ nói lên sự hi sinh quên mình của người Lính khi chiến đấu nơi chiến trường. Tất cả là vì tình yêu quê hương, đất nước!.. 04. ⇧ĐỪNG TRÁCH ANH NHÉ - Thơ Phan Trọng XuânĐã bao lần em nặng, nhẹ trách anh... Bến sông quê, qua rồi không trở lại "Bến" xa "thuyền", "thuyền" đi.., rồi đi mãi... Câu thề xưa còn mãi với tháng, năm... Điệu hò quê sao mộc mạc, thắm đằm Như tình em thấm vào lòng anh vậy... Nơi phương xa, anh nhớ em biết mấy Như ngày nào, độ ấy.., bước chân đi... Quên làm sao, lời em khẽ thầm thì "Thắng giặc rồi, nhớ về cùng em nhé..." Lời hứa xưa "..đưa em về thăm mẹ.." Anh ghi lòng, tạc dạ mãi trăm năm... Nơi chiến trường, súng anh trút hờn căm Vì tổ quốc, vì quê hương ta đó... Vì cả dòng sông và con thuyền nhỏ... Có cả bóng hình em gái thân thương... Một ngày kia, anh ngã giữa chiến trường Phút lâm chung nhớ mẹ, em.. nhiều quá Nhớ quê hương, nhớ bạn bè, tất cả... Thương câu thề.. để lỡ phận "duyên quê"... Anh biết em vẫn ngóng đợi anh về Mặc váy hoa.. bên anh trong ngày cưới... Mắt long lanh như sông quê mát rượi... Thỏa nguyện thề nơi bến ấy.., năm xưa... Thương con thuyền vẫn năm, tháng nắng mưa... Bóng hình em vẫn tháng, ngày chờ đợi Đừng trách anh.., thời gian trôi vời vợi... Bởi chiến tranh, anh mãi mãi không về... Bài thơ "Đừng trách anh nhé" là tiếng lòng của người lính năm xưa đối với mối tình thủy chung, son sắt của cô gái.., mối tình anh bộ đội với cô lái đò sông sông quê.., cô gái mãi đợi chờ anh qua bao năm tháng.., đâu biết rằng anh đã hi sinh anh dũng trong một cuộc chiến khốc liệt... 05. ⇧TÌNH ANH LÍNH ĐẢO - Thơ Nguyễn Thị TínhEm yêu ơi ! hôm nay ngày phụ nữ Anh đứng đây giữa biển biếc nghìn trùng Nhớ về em lòng bỏng cháy yêu thương Cô giáo của anh chiều tan trường đơn bóng Đốt trong tim niềm khát khao hy vọng Anh trở về trong ngày của em yêu Là phụ nữ ai cũng muốn cưng chiều Với vợ anh ấy là điều xa xỉ Cái ôm hôn hương ấm nồng bình dị Vợ chồng mình chỉ thỏa mãn trong mơ Nỗi khát khao trong khắc khoải đợi chờ Âu như thế cũng là niềm hạnh phúc Tình đôi ta luôn bừng bùng cháy rực Đỏ trong tim ngày hội ngộ tương phùng Em thương yêu ! anh xin tặng chúc mừng Tới vợ anh cùng bạn bè đồng nghiệp Các cô giáo ngàn lời trao ánh thiếp Niềm vui nhân đôi hạnh phúc ngập tràn Nghề trồng người em cùng bạn nặng mang Hãy kiêu hãnh và tự hào em nhé Bằng nhiệt huyết cháy trong tim tuổi trẻ Truyền dạy các em kiến thức tình yêu Yêu quê hương yêu Tổ Quốc thật nhiều Yêu người lính đang giữ gìn biển đảo Có anh đây mặc nắng mưa gió bão Vẫn hiên ngang chắc tay súng không rời Bao anh hùng chìm đắm đáy biển khơi Nhưng hồn cốt vẫn cùng anh trấn giữ Anh hiểu rõ giữa lằn ranh sinh tử Khi kẻ thù tham vọng chiếm Biển Đông Cùng đồng đội sẽ chiến đấu đến cùng Mắt nhắm rồi môi vẫn cười mãn nguyện Kiêu hãnh tự hào trọn đời dâng hiến Quyết giữ biển trời hải đảo bình yên Trái tim anh ôm trọn bóng vợ hiền Đang ngày đêm ngóng tin chờ đón đợi Giữ mái trường xinh tươi màu ngói mới Các em thơi vui cắp sách đến trường Trong ngọt ngào giọng cô giáo yêu thương Thấp thoáng bóng anh vấn vương bài em giảng Giọng vợ anh ngân âm vang hào sảng Hãy tự hào là vợ lính nghe em. Bài thơ tình yêu của người Lính gửi đến vợ mình hiện đang là Giáo viên với lời yêu thương, ca ngợi nhân ngày Phụ Nữ. Bài thơ nói lên nỗi nhớ người vợ nơi quê nhà của người Lính trẻ. Dù chưa có nhiều thời gian bên nhau nhưng họ luôn cảm nhận được niềm hạnh phúc đó. Bài thơ về Lính thật hay và lãng mạn.. 06. ⇧HOA VÀ NGƯỜI LÍNH - Thơ Thúy Hà LêHoa kia mọc ở ven đường, Hương hoa dịu nhẹ khiêm nhường biết bao. Thoảng trong hương gió lao xao, Nghe sao chất chứa nao nao lòng người. Dù em không đẹp mười mươi, Nồng nàn, ngào ngạt, đỏ tươi, tím, hồng... Trải bao giá lạnh mưa dông Vẫn tinh khôi, ánh cầu vồng trong em. Thao trường bùn lấm đạn nhem, Đau thương khói lửa đan xen bao ngày. Mộng mơ anh vẫn hăng say, Cánh hoa trắng nhẹ đã thay câu thề. Nhẹ nhàng như ánh pha lê, Đơn sơ e ấp tìm về bên nhau. Cuộc đời người lính muôn màu, Dẻo dai, bền bỉ trước sau chung tình. Chỉ cần ta thắm bên mình, Gian lao muôn nẻo thuyền tình vẫn trôi, Chỉ cần em là em thôi, Hoa và người lính trong tôi mãi còn. Cho dù lấp bể dời non, Hoa và người lính...vẫn sánh tròn...ngát hương!!! Bài thơ nói lên sự giản dị của người Lính nhưng rất chân thành và lãng mạn.. 07. ⇧TÌNH YÊU NGƯỜI LÍNH GIÀ - Thơ Hoàng Quý PhiQuá nửa đời chưa học trọn vần yêu Để cho em cứ phải hờn, phải giận Trước ba quân anh phất cờ xung trận Sao bên em lại giống một kẻ khờ Có phải rằng lính không biết làm thơ Chẳng biết nói lời yêu thương dịu ngọt Quân lệnh lính đâu giống như chim hót Anh đã quen nên mang cả về đây Ba mấy năm chung sống được mấy ngày Bởi phận lính anh cứ đi biền biệt Bao việc nhà một mình em gánh hết Lên chức ông, bà cũng vất vả mình em Yêu thế nào, em hãy chỉ anh xem Anh sẽ học thuộc làu từng câu chữ Để em không phải giận hờn trách cứ Như thuở nào còn lứa tuổi trăng non Ba mấy năm chữ yêu chẳng đủ tròn Để nợ em cả quãng đời còn lại Sóng biển Đông anh không hề sợ hãi Mà bây giờ run rẩy một vòng tay. Bài thơ ca ngợi sự dũng cảm, kiên cường của người Lính khi ra chiến trường nhưng trong tình yêu thì còn "non lắm" nhưng tình cảm ấy lại rất chân thành. Tình Yêu Người Lính ảnh internet 08. ⇧GỬI ANH - NGƯỜI LÍNH CỦA LÒNG EM - Thơ Tăng Bình ThảoLời thơ anh chất đầy thương nhớ Em vẫn xem, anh chớ lo âu Em, anh xa cách hai đầu Em đây vẫn thức đêm thâu, nhớ người Đời lính chiến chẳng tươi như mộng Nhưng tình anh, biển rộng bao la Dù ta có phải cách xa Em luôn gìn giữ tình ta mỗi ngày Nơi thao trường mưa dày, nắng cháy Cố lên anh, giữ mãi niềm tin Ngày sau ta lại yên bình Đắp xây mộng đẹp, chuyện tình đôi ta Đêm khuya vắng, thơ là… anh đó Em kề bên, chả bỏ anh đâu Hỡi anh, chớ vội ưu sầu Mượn thơ gửi đến, vài câu trao người. Bài thơ nói lên tình cảm của cô gái nơi quê nhà gửi đến người Lính đang làm nhiệm vụ nơi thao trường xa xôi. Bài thơ ca ngợi "người Lính của lòng em" và tình cảm thủy chung, luôn đợi chờ anh về của cô gái.. 09. ⇧TỰ HÀO LẮM, NGƯỜI CHIẾN SĨ NHƯ ANH - Thơ Nguyễn Thu HiềnChiến trường xa, ác liệt phải không anh ?? Khói đạn, bom, không làm mờ ý trí Vẫn hăng say, kíp tuần tra phòng bị Gương mặt ngời, rạng rỡ, cánh Chim câu !!! Nhiệm vụ anh, được đặt lên hàng đầu Chiến đấu vì, nền hoà bình thế giới Hậu phương em, với niềm vui mong đợi Bởi những gì, anh đã gắng hy sinh !!! Người lính mà, họ nồng nàn chung tình Yêu hết mực, người vợ hiền, chung hậu Ở ngoài kia, chiến trường nơi giao đấu Giáp lá cà, anh đâu ngại hy sinh !! Cảm ơn anh, người chiến sĩ quang vinh Tổ quốc, ghi tên anh, vào trang lịch sử Còn gì hơn, em tự hào lắm chứ Em yêu nhiều, yêu lắm, người lính, như anh!!! Bài thơ thể hiện tình cảm, lòng tự hào về Người Lính của người vợ hiền nơi quê nhà. Thơ nói lên tình cảm thủy chung, luôn hướng về anh - người Lính của lòng em!.. 10. ⇧NGƯỜI LÍNH CHIẾN - Thơ Người Cầm BútMột ba lô, một cây súng trên tay. Người lính chiến băng qua vùng lửa khói. Quê hương đau, vết hằn sâu bom đạn. Của quân thù gieo chết chóc đau thương. Xếp bút nghiên, anh hăng hái lên đường. Một cây súng một ba lô, một ngôi sao rực lửa. Trên đỉnh Trường sơn, rừng sơ xác úa. Bom đạn dập dồn hối hả bước chân nhanh. Anh muốn thật nhanh, tiến đến Sài thành. Nơi quê hương anh đang ngày đêm trông ngóng. Nhưng rồi anh nằm xuống khi căng tràn nhựa sống. Bom đạn quân thù đã cản bước chân anh. Tuổi hai mươi, anh nằm lại rừng xanh. Anh không được vui niềm vui đại thắng! Anh nằm lại nơi rừng hoang núi thẳm. Hoá thân mình thành sông núi nước Nam. Tôi lắng nghe trong gió núi mây ngàn. Có tiếng hát cuộc đời anh vọng mãi. Xin an lòng những gì anh để lại. Có chúng tôi xin tiếp tục giữ gìn. Dù gian nan vất vả, dẫu hy sinh Vẫn hiên ngang không cúi đầu khuất phục. Bài thơ ca ngợi người Lính chiến với sự trung thành, dũng cảm, hi sinh trong chiến đấu. Dù chiến trường có ác liệt nhưng người Lính vẫn hiên ngang không cúi đầu khuất phục.. THƠ HAY CA NGỢI NGƯỜI LÍNHNhững vần thơ ca ngợi tinh thần chiến đấu, hi sinh, trung thành với Tổ quốc, chân thành & chung thủy với tình cảm riêng tư.. Dù trong thời chiến hay thời bình..11. ⇧NGƯỜI BẠN - Thơ Vũ PhạmCó mấy lượt nhận được tin mày chết...! Trận mùa hè đỏ lửa 1972 Pháo dập xung quanh, bom nổ, đạn cày... Im tiếng súng, máu tuôn...mày gục ngã...! Thật kỳ diệu, tưởng chừng như phép lạ Mày đã cựa mình, mệt lã bởi vết thương ! Năm 1975 khi kết thúc chiến trường. Tưởng yên ổn về hậu phương êm ấm Giặc phương bắc thêm một lần gây hấn...! Mày lại lên đường ngăn chặn bước xâm lăng Một tiếng nổ long trời ngay ở dưới chân Mày ngất lịm không còn nghe tiếng thở ! Mấy giờ sau mắt mày chợt mở Đôi chân mày không nguyên vẹn như xưa !* Thời gian trôi...mày không nhớ mấy mùa Mày không chết...vì mày là người lính Thật hiên ngang nhưng mày luôn câm nín Bất chấp đạn bom...để đổi lấy hòa bình Ý chí của mày...làm cho giặc khiếp kinh Trong cuộc sống...bị làm tình làm tội...! Tao biết mày không chết... nhưng tim mày nhức nhói Mất niềm tin...còn đau hơn mảnh cối, đạn đồng...! Tao biết mày đang rỉ máu vết thương lòng Trong độc lập, còn lắm thằng gục ngã...! * Kẻ thù rất nham hiểm, trong chiến tranh biên giới phía Bắc và biên giới Tây - Nam, chúng dùng loại mìn sát thương làm mù mắt, mất tay, chân nhưng không chết. Để lại nỗi đau và gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội. 12. ⇧ANH LUÔN LÀ NGƯỜI LÍNH - Thơ Nguyễn Đình HuânNhân ngày 22/12 tặng anh Vũ Trọng Khu-Một ông anh từng là người lính chiến đấu tại thành cổ Quảng Trị. Em gặp anh ngày ấy giữa trời âu Mùa đông về trắng một màu của tuyết Tuổi trẻ anh hào hùng em đâu biết Mười bảy tuổi đầu giã biệt quê hương Xếp bút nghiên anh cất bước lên đường Chia tay mẹ ra chiến trường đánh Mỹ Như bao thanh niên anh là chiến sĩ Chiến đấu kiên cường đất Quảng Trị kiên trung Bao bạn anh hy sinh như những anh hùng Vì tổ quốc anh góp chung xương máu Thật tự hào về một thời chiến đấu Hoà bình về anh nung nấu ước mơ Học thành tài ấp ủ lúc còn thơ Kô si ce giấc mơ thành sự thật Người lính xưa có một thời bất khuất Anh đã căng mình học tập nêu gương Luôn xung phong như lúc ở chiến trường Dìu dắt đàn em trên đường đi tới Lời cám ơn xin cho em nhắn gởi Chúc anh an lành ngày quân đội Việt Nam. Tranh vẽ bộ đội cụ Hồ ảnh internet 13. ⇧KHI NGƯỜI LÍNH TRỞ VỀ - Thơ Cao Hùng CườngTa từ giã, một thời áo lính Trở về nhà, với toan tính nhỏ nhoi Chăm chỉ làm ăn, tính toán rạch ròi Bù đắp lại, thiệt thòi ngày xa vắng... Bao kẻ thù, ta còn chiến thắng Khó khăn nào, ta chẳng vượt qua Từ bàn tay, cuộc đời sẽ nở hoa Những người lính, viết bài ca hạnh phúc Lại vươn lên, không bao giờ ngã gục Trước gian lao, càng sôi sục tinh thần Người lính chiến binh, chẳng có phân vân Ta lại thắng, như bao lần chiến thắng... Bài thơ ca ngợi tinh thần của người Lính. Nơi chiến trường thì sẵn sàng chiến đấu hi sinh, khi chiến thắng quay về thì tiếp tục xây dựng kinh tế, xây dựng quê hương đất nước. Không có điều gì làm cho người Lính phải chùn chân.. 14. ⇧LÍNH CHIẾN GẶP NHAU - Thơ Nguyễn Đình HuânHơn bốn chục năm sóng gió phong ba Cả hai anh vẫn cứ là chiến sĩ Như ngày xưa bên nhau thời đánh Mỹ Rừng Trường Sơn thành Quảng Trị năm xưa Những người lính đã từng trải nắng mưa Có những trận đánh như đùa mà thắng Nay gặp nhau hai mái đầu bạc trắng Vẫn vẹn tròn với nghĩa nặng tình quê Nhớ cánh cò nơi xóm nhỏ chân đê Bến sông xưa ai đã thề yêu mãi Nụ hôn đầu trao cho cô bạn gái Hẹn ngày về mùa hoa cải vàng bông Chẳng nhắc về những đóng góp chiến công Nhắc đồng đội những đứa không còn nữa Nằm lại rừng sâu một thời khói lửa Những anh hùng mãi mãi thuở hai mươi Khi chia tay ôm nhau nở nụ cười Thắm thiết như xưa của người lính chiến Hào sảng vô tư thiệt tình lưu luyến Hai người lính già mãn nguyện bên nhau. Bài thơ là tâm tình của hai người Lính già gặp lại nhau sau hơn 40 năm cùng chiến đấu chống giặc xâm lượt. Dù trong thời chiến hay thời bình thì tình đồng đội vẫn không hề thay đổi.. 15. ⇧NGHE SÓNG VỖ BÊN SÔNG - Thơ Nguyễn Đình HuânBài thơ là cảm xúc của tác giả khi ngồi cùng với những người từng là chiến sĩ bên sông Sài Gòn trong ngày Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12 Chiều hôm nay ngày Quân đội nước ta Ngồi với các anh từng là chiến sĩ Nghe các anh kể chuyện thời chống Mỹ Thật hào hùng thành Quảng Trị năm xưa Rừng Trường Sơn hai mùa nắng và mưa Có những chuyện cứ như đùa mà thật Có ba thằng được cử lên đánh chốt Gặp quân quân thù bốn mốt lính vô Biết làm sao tình huống thật bất ngờ Cùng hội ý ta bây giờ cũng đánh Cứ như đùa là các anh đã thắng Chuyện thật mà khi nói chẳng ai tin Những ký ức xưa của những chiến binh Những câu chuyện hy sinh vì đồng đội Tình nghĩa sắt son một thời lửa khói Nhắc về bạn mình chợt nhói con tim Lúc vượt sông có đứa đã hy sinh Là đồng hương quê Thái Bình ta đó Hai mươi tuổi người yêu còn chưa có Chợt nghẹn ngào nghe sóng vỗ bên sông. 16. ⇧BÀI THƠ ÁO LÍNH - Thơ Thúy HoàngBài thơ này tôi viết tặng các anh Người mà đã xuân xanh thời áo lính Đã lửa đạn xông pha chắc tay súng Rất kiên cường, không nao núng chiến tranh Nơi chiến trường khốc liệt, đạn tạc oanh Các anh đã quân hành vượt đèo núi Qua những chỗ nơi lửa bom cát bụi Khói mịt mù sẵn tiêu lụi xác thân Các anh đi vượt đèo núi chân trần Cùng đôi dép cao xu quần áo rách Ôm súng đạn, ba lô quàng bên nách Luôn sẵn sàng bắn tỉa sạch giặc kia Chiến trường xưa nhìn lại các anh kìa Vẫn xứng đáng màu áo kia trân quý Những đức tính lính Bác Hồ tận tụy Vì non sông, đất nước đã quên mình Mãi cả đời là lính Hồ Chí Minh Các anh đã mang quang vinh đất nước Dẫu gian khổ các anh không chùn bước Vì quê hương thân thuộc Việt Nam mình. Bài thơ 8 chữ ca ngợi sự giản dị, anh dũng của người Lính lúc ở chiến trường cũng như khi hòa bình trở về nhà.. 17. ⇧KHI NGƯỜI LÍNH TRỞ VỀ DẠY HỌC - Thơ Nguyễn Trọng NghĩaĐánh Mỹ khi xưa ở chiến hào Ai nào nghĩ đến chuyện công lao Nay về lên lớp lòng thanh thản Giờ được vô trường dạ khát khao Phấn đấu tâm hồn luôn mở rộng Luyện rèn tri thức một thêm cao Xa ngành, hưu trí say cùng bạn Xướng hoạ vần chung thấy ngọt ngào Bài thơ thất ngôn bát cú nói lên niềm tự hào của người Lính từng chiến đấu nơi chiến trường mà nay đã trở thành người thầy dạy học.. 18. ⇧CÁM ƠN EM CÔ GÁI YÊU NGƯỜI LÍNH - Thơ Thế NguyênDấu yêu ơi! Cảm ơn em nhiều lắm Đã yêu anh yêu người lính biên cương Dám yêu anh khi em đã tỏ tường Đời lính nghèo gia tài là khẩu súng. Dấu yêu ơi! Lời thơ anh lúng túng Nói lời yêu hay ấp úng ngại ngùng Chẳng dõng dạc như hô tiếng xung phong Chẳng dũng mãnh như tấn công kẻ địch. Dấu yêu ơi! Đêm biên cương tĩnh mịch Tuần tra xong anh ngồi viết thơ tình Viết về em chuyện hai đứa chứng mình Gái thủ đô dám yêu chàng lính chiến. Dấu yêu ơi! Dáng hình em ngự hiện Vững lòng anh trong đêm tối tuần tra Ấm lòng anh như thể ở chung nhà Cảm ơn em cô gái yêu người lính!!! Bài thơ là lời cám ơn chân thành của người Lính muốn gửi đến người con gái đã đem lòng yêu mình dù biết đời Lính nghèo với gia tài chỉ là khẩu súng.. Các bạn vừa xem qua những bài thơ viết về Người Lính với lời thơ ca ngợi sự chân thành, anh dũng, kiên cường chiến đấu và hi sinh. Những sáng tác mới hơn sẽ được chúng tôi cập nhật sớm nhất!.. Hãy chia sẻ cảm xúc của bạn về hình ảnh Người Lính ở phần bình luận bên dưới bài viết nhé!.. Bản quyền hình ảnh Getty Images Image caption Có thêm sách viết về người lính VNCH Những năm gần đây bắt đầu xuất hiện những nhà nghiên cứu trẻ nước ngoài gốc Việt thành danh với các công trình liên quan đến gốc rễ Việt Nam của họ. Tại Mỹ, nơi tập trung cộng đồng Việt kiều, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Việt nhận giải văn học Pulitzer năm 2015 cho tiểu thuyết The Sympathizer. Một người khác cũng ở Mỹ, Tiến sĩ Nguyễn Liên Hằng, được giải Stuart L. Bernath của Hội Sử gia Quan hệ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2013 nhờ cuốn Hanoi’s War An International History of the War for Peace in Vietnam. Úc, với số người gốc Việt ước tính hơn người, cũng chứng kiến sự xuất hiện của một số người lớn lên ở đây nhưng muốn viết về Việt Nam. Một mảng được họ quan tâm là tiếng nói của thế hệ phi cộng sản trong chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Trải nghiệm từ cha mẹ Cuốn sách gần đây, South Vietnamese Soldiers Memories of the Vietnam War and After in năm 2016, là một nỗ lực như vậy của Tiến sĩ Nathalie Huynh Chau Nguyen, dạy tại Đại học Monash, Úc. Cuốn sách bắt đầu từ dự án nghiên cứu của tác giả về các cựu binh Việt Nam Cộng Hòa VNCH, chủ yếu định cư ở Úc, gồm tổng cộng 54 cuộc phỏng vấn. Những cựu binh được phỏng vấn, người già nhất sinh năm 1917 và trẻ nhất 1955, kể lại cuộc đời họ. Như tác giả cho hay, quan niệm của chính bà về cuộc chiến chịu ảnh hưởng từ trải nghiệm của cha mẹ. Bản thân cha của tác giả, Nguyễn Triệu Đan, là Đại sứ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa ở Nhật Bản 1974-75. Người cha rời miền Bắc Việt Nam năm 1950, mang theo bộ gia phả chữ Hán do người ông soạn, tiếp tục truyền thống học tập của gia đình. Lấy bằng tiến sĩ luật ở Pháp, ông Đan trở thành nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa, tham dự phái đoàn VNCH tại Hội Nghị Paris dẵn tới Hiệp định 1973. Sau ngày 30/4/1975, gia đình tị nạn ở Melbourne, Úc. Bà Nathalie Nguyễn từng gợi ý để cha viết lại hồi ký, nhưng ông không làm vì cảm thấy chủ đề còn quá đau đớn khi nhắc lại. Nhưng bà Nathalie Nguyễn, sau khi nhận bằng tiến sĩ ở Đại học Oxford, vẫn băn khoăn khi giới viết sử hầu như bỏ qua trải nghiệm của người lính và thường dân miền Nam trong cuộc chiến kết thúc năm 1975. Nữ quân nhân Qua các câu chuyện cá nhân, cuốn South Vietnamese Soldiers như một lược sử về những người lính Việt Nam, bắt đầu từ thời tuổi trẻ đến khi họ tìm đường sang Úc. Bản quyền hình ảnh Stuart Lutz/Gado Image caption Quân nhân Quân lực VNCH trong ảnh chụp năm 1968 Tác giả nhắc lại rằng Nam Việt Nam mất hơn người lính trong cuộc chiến, với số người bị thương khoảng hơn Một chương sách dành để nói về Đoàn Nữ Quân Nhân Quân lực VNCH, một đối tượng ít khi được nhắc tới. Vào lúc kết cuộc năm 1975, có khoảng phụ nữ phục vụ trong Đoàn Nữ Quân Nhân. Miền Nam sụp đổ là “vết sẹo” lớn nhất trong cuộc đời nhiều phụ nữ này. Một người phụ nữ kể về giai đoạn hậu chiến là “thời gian tuyệt vọng”. Bà chạy sang Campuchia mang theo con trai, ở đó suốt năm năm để có thể sang trại tị nạn ở Thái Lan rồi sang Úc năm 1990. Sau này, cũng người phụ nữ này quay về Việt Nam mỗi năm để giúp đỡ những thương phế binh VNCH. Con trai bà hỏi sao mẹ cứ về Việt Nam, và “hãy quên đi những kỷ niệm đau thương”. Nhưng bà nói “Nỗi đau mới làm mình biết nhớ.” Úc công nhận cựu binh VNCH Qua sách, người đọc biết thêm rằng từ 1980, Úc có chế độ công nhận cựu binh của các đồng minh qua việc cấp cho họ lương hưu. Chính sách ra đời từ nhu cầu đáp ứng cho các cựu binh thời Thế chiến Hai, nhưng cũng áp dụng cho các xung đột sau này như Chiến tranh Việt Nam. Bản quyền hình ảnh Getty Images Image caption Lính Úc tham chiến tại Nam Việt Nam từ 1965 Với nhiều cựu binh VNCH, việc nộp đơn xin chính phủ Úc công nhận là cựu binh đồng minh không chỉ để có tiền hưu, mà quan trọng hơn, để tự hào rằng họ được công nhận trong danh dự. Image caption Quân lực VNCH trong một lần hành quân – ảnh do ông Hoàng Cơ Lân ở Paris cung cấp Việc Úc công nhận cựu binh VNCH cũng giúp những người này có chỗ đứng trong lịch sử di dân và chiến tranh của Úc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng cựu binh Úc. Một cựu binh chỉ ra rằng ngay tại Mỹ, không có mức độ công nhận cựu binh VNCH nhiều như tại Úc. Chính sách của Úc đã cho những người lính VNCH có được diễn đàn, tạo cho họ cơ hội đóng góp và tham gia những dịp Úc kỷ niệm cuộc chiến Việt Nam. Những nghiên cứu tiếng Anh nổi bật về Việt Nam Cộng Hòa gần đây chủ yếu tập trung vào chính thể Tổng thống Ngô Đình Diệm 1955-63. Một phần lý do là sự mở cửa ngày càng cởi mở của các kho tư liệu về giai đoạn này ở Việt Nam. Cuốn sách của bà Nathalie Huynh Chau Nguyen là một nỗ lực khác, và bà nói việc người ta cố “xóa sổ VNCH” khỏi cả lịch sử Việt Nam và ngành viết sử về chiến tranh đã là động lực cho nghiên cứu của bà. Nguồn FB Le van Quy 25/4/2023Úc vừa phát hành tem kỷ niệm ngày Anzac Day 25-04 ANZAC được viết tắt từ chữ Australia and New Zealand Army Corps.Những năm gần đây bắt đầu xuất hiện những nhà nghiên cứu trẻ nước ngoài gốc Việt thành danh với các công trình liên quan đến gốc rễ Việt Nam của họTại Mỹ, nơi tập trung cộng đồng Việt kiều, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Việt nhận giải văn học Pulitzer năm 2015 cho tiểu thuyết The Sympathizer. Một người khác cũng ở Mỹ, Tiến sĩ Nguyễn Liên Hằng, được giải Stuart L. Bernath của Hội Sử gia Quan hệ Ngoại giao Hoa Kỳ năm 2013 nhờ cuốn Hanoi's War An International History of the War for Peace in với số người gốc Việt ước tính hơn người, cũng chứng kiến sự xuất hiện của một số người lớn lên ở đây nhưng muốn viết về Việt mảng được họ quan tâm là tiếng nói của thế hệ phi cộng sản trong chiến tranh ở miền Nam Việt nghiệm từ cha mẹCuốn sách gần đây, South Vietnamese Soldiers Memories of the Vietnam War and After in năm 2016, là một nỗ lực như vậy của Tiến sĩ Nathalie Huynh Chau Nguyen, dạy tại Đại học Monash, sách bắt đầu từ dự án nghiên cứu của tác giả về các cựu binh Việt Nam Cộng Hòa VNCH, chủ yếu định cư ở Úc, gồm tổng cộng 54 cuộc phỏng cựu binh được phỏng vấn, người già nhất sinh năm 1917 và trẻ nhất 1955, kể lại cuộc đời tác giả cho hay, quan niệm của chính bà về cuộc chiến chịu ảnh hưởng từ trải nghiệm của cha thân cha của tác giả, Nguyễn Triệu Đan, là Đại sứ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa ở Nhật Bản 1974-75. Người cha rời miền Bắc Việt Nam năm 1950, mang theo bộ gia phả chữ Hán do người ông soạn, tiếp tục truyền thống học tập của gia bằng tiến sĩ luật ở Pháp, ông Đan trở thành nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa, tham dự phái đoàn VNCH tại Hội Nghị Paris dẵn tới Hiệp định ngày 30/4/1975, gia đình tị nạn ở Melbourne, Nathalie Nguyễn từng gợi ý để cha viết lại hồi ký, nhưng ông không làm vì cảm thấy chủ đề còn quá đau đớn khi nhắc bà Nathalie Nguyễn, sau khi nhận bằng tiến sĩ ở Đại học Oxford, vẫn băn khoăn khi giới viết sử hầu như bỏ qua trải nghiệm của người lính và thường dân miền Nam trong cuộc chiến kết thúc năm quân nhânQua các câu chuyện cá nhân, cuốn South Vietnamese Soldiers như một lược sử về những người lính Việt Nam, bắt đầu từ thời tuổi trẻ đến khi họ tìm đường sang giả nhắc lại rằng Nam Việt Nam mất hơn người lính trong cuộc chiến, với số người bị thương khoảng hơn chương sách dành để nói về Đoàn Nữ Quân Nhân Quân lực VNCH, một đối tượng ít khi được nhắc lúc kết cuộc năm 1975, có khoảng phụ nữ phục vụ trong Đoàn Nữ Quân Nhân. Miền Nam sụp đổ là "vết sẹo" lớn nhất trong cuộc đời nhiều phụ nữ người phụ nữ kể về giai đoạn hậu chiến là "thời gian tuyệt vọng". Bà chạy sang Campuchia mang theo con trai, ở đó suốt năm năm để có thể sang trại tị nạn ở Thái Lan rồi sang Úc năm này, cũng người phụ nữ này quay về Việt Nam mỗi năm để giúp đỡ những thương phế binh trai bà hỏi sao mẹ cứ về Việt Nam, và "hãy quên đi những kỷ niệm đau thương".Nhưng bà nói "Nỗi đau mới làm mình biết nhớ."Úc công nhận cựu binh VNCHQua sách, người đọc biết thêm rằng từ 1980, Úc có chế độ công nhận cựu binh của các đồng minh qua việc cấp cho họ lương hưu. Chính sách ra đời từ nhu cầu đáp ứng cho các cựu binh thời Thế chiến Hai, nhưng cũng áp dụng cho các xung đột sau này như Chiến tranh Việt nhiều cựu binh VNCH, việc nộp đơn xin chính phủ Úc công nhận là cựu binh đồng minh không chỉ để có tiền hưu, mà quan trọng hơn, để tự hào rằng họ được công nhận trong danh Úc công nhận cựu binh VNCH cũng giúp những người này có chỗ đứng trong lịch sử di dân và chiến tranh của Úc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng cựu binh cựu binh chỉ ra rằng ngay tại Mỹ, không có mức độ công nhận cựu binh VNCH nhiều như tại Úc công nhận cựu binh VNCH cũng giúp những người này có chỗ đứng trong lịch sử di dân và chiến tranh của Úc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng cựu binh cựu binh chỉ ra rằng ngay tại Mỹ, không có mức độ công nhận cựu binh VNCH nhiều như tại sách của Úc đã cho những người lính VNCH có được diễn đàn, tạo cho họ cơ hội đóng góp và tham gia những dịp Úc kỷ niệm cuộc chiến Việt nghiên cứu tiếng Anh nổi bật về Việt Nam Cộng Hòa gần đây chủ yếu tập trung vào chính thể Tổng thống Ngô Đình Diệm 1955-63. Một phần lý do là sự mở cửa ngày càng cởi mở của các kho tư liệu về giai đoạn này ở Việt sách của bà Nathalie Huynh Chau Nguyen là một nỗ lực khác, và bà nói việc người ta cố "xóa sổ VNCH" khỏi cả lịch sử Việt Nam và ngành viết sử về chiến tranh đã là động lực cho nghiên cứu của bà. theo bbc

một người lính nói về thế hệ mình