Dưới đây là tổng hợp 19 địa điểm tham quan nổi tiếng nhất và cũng được nhiều du khách yêu thích nhất. Mục lục. 1. Tham quan Nha Trang - Du lịch biển đảo. 1.1 Đảo Bình Hưng Nha Trang. 1.2 Tham quan Nha Trang - Đảo Bình Ba. 1.3 Đảo Bình Lập. 1.4 Đảo Điệp Sơn - Độc đáo con
Nhưng ở trận đấu với một Swansea đã hết mục tiêu (trụ hạng nhưng không có khả năng giành vé dự cúp châu Âu), Arsenal đã không còn duy trì được sự sắc bén. Cầm bóng tới 68%, sút 23 (9), nhưng các "Pháo thủ" không một lần tìm được mành lưới đối phương. Arsenal
Ảnh 3: Phong cách Bohemian trong nội thất sử dụng những họa tiết bắt mắt. Tuy nhiên, người ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra những nét đặc trưng của không gian Bohemian, bởi những nét họa tiết cực kỳ tinh tế và bắt mắt. Đặc điểm của nét chấm phá này, chính là sự
2 người đàn ông liên tục đánh, đá và dùng khúc gỗ đánh vào người một ngư dân khác đã bị trói tay, chân và nằm giãy giụa trên tàu. Vác súng đi hỗn chiến ở Trà Vinh, bắn đối thủ tử vong. Mới đây, mạng xã hội lại xôn xao khi xuất hiện đoạn clip ghi lại cảnh một
Biển Đông; Chuyển đổi số quốc gia; Dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19; Khám phá Động Trung Trang ở Vườn Quốc gia Cát Bà Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Điện thoại: (024) 39411349 - (024) 39411348
Bãi Sao Phú Quốc với bãi cát dài trắng mịn. Bãi Sao là một bãi biển đẹp của Phú Quốc nằm trong chuỗi các bãi biển hướng Đông Nam của đảo, nằm giữa mũi Hang và mũi Bãi Khem. Với sự phát triển du lịch vượt bậc của đảo ngọc, Bãi Sao ngày càng thu hút nhiều du khách.
Đáng chú ý là Bộ Luật Hình sự năm 1999, lần đầu tiên có 1 điều quy định về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ (Điều 190); Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) cũng bổ sung
LxGSSS. Dã tràng là một loại cua biển nhỏ còn gọi là còng còng, có tập tính vê cát thành từng viên để tìm thức ăn. Nhân dân ta có câu thành ngữ "Công dã tràng" để chỉ những việc bỏ công sức khó nhọc mà chẳng thu được kết quả gì. Mời các bạn và các em cùng đọc truyện cổ tích Việt Nam đặc sắc Sự tích con dã tràng để hiểu rõ hơn về hình tượng dã tràng se cát nhé. SỰ TÍCH CON DÃ TRÀNG Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang . Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn vào, thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy của nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn . Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột, nằm im thiêm thiếp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy tức giận, muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái, nhưng trong cái thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữa. Chừng dăm bảy ngày sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và vui miệng, ông kể luôn những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói - Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe được mọi tiếng muông chim ở thế gian. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời. Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này "Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với". Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy, đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy tất cả, chẳng chừa một tí gì. Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy ông biết là người trong xóm đã làm hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp mũi tên có tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông, thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông, hạ ngục. Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét giải ông về kinh để vua phân xử. Từ đề lao tỉnh, ông bị điệu đi. Dọc đường trời tối, bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau - Nhanh lên ! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả. Một con khác hỏi - Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế ? Con nọ trả lời - Của Vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua, quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác cho nên chúng ta tha hồ chén. Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc dục lên đường, Dã Tràng bảo họ - Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, và còn cấp bách nữa là khác. Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng Hiến Đế ở phương bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà đoan rằng nếu có sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngõ để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sai và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch. ... - Đọc tiếp -
Dã tràng xe cát bể Đông Dã tràng xe cát bể Đông Biết rằng có thật hay không mà chờ Trách cây trách lá bơ vơ Nợ trần biết trả bao giờ cho xong? Cùng thể loại Trời cao bể rộng bao la Trời cao bể rộng bao la Việc gì mà chẳng phải là may ta Trong việc nhà, ngoài thì việc nước Giữ làm sao sau trước vẹn tuyền Lọ là cầu Phật, cầu Tiên Trời cho cày cấy đầy đồng Trời cho cày cấy đầy đồng Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê Một mai gặt lúa đem về Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung Lúa một chục trả một thiên Lúa một chục, trả một thiên Cho vay cắt cổ đừng phiền tại ai! Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Trên đời nhất đẹp là lồn Trên đời nhất đẹp là lồn Nhất ngon là muối, nhất khôn là tiền Anh nhiêu đi học không thầy Anh nhiêu đi học không thầy Làm bài không bút thiếp rày theo anh Chàng ràng bắt cá hai tay Chàng ràng bắt cá hai tay, Con trong cũng mất con ngoài cũng không Ở đây ăn bát rau chành Ở đây ăn bát rau chành Còn hơn chốn khác mâm gành cỗ gơ Trên trời có cả cầu vồng Trên trời có cả cầu vồng, Có cái mống cụt đằng đông sờ sờ. Biết nơi đâu cao nấm ấm mồ Biết nơi đâu cao nấm ấm mồ Em ngồi mà đợi cho tùng khô, lựu cằn Mừng nay nho sĩ có tài Mừng nay nho sĩ có tài Bút nghiên dóng dả, giữ mài nghiệp nho Rõ ràng nên đấng học trò Công danh hai chữ trời cho rõ ràng Một mai chiếm được bảng vàng Ấy là phú quý giàu sang quế hòe Bước đường tiến đến cống nghè Vinh quy bái tổ, ngựa xe tưng bừng Bốn phương nức tiếng vang lừng Ngao du bể thánh, vẫy vùng rừng nho Quyền cao chức trọng trời cho Bõ công học tập, bốn mùa chúc minh Có cùng từ khóa Công dã tràng thường ngày xe cát Công dã tràng thường ngày xe cát Sóng ba đào, ai xét công cho Dã tràng xe cát uổng công Dã tràng xe cát uổng công Lòng anh thương bậu đã mấy đông chịu sầu Trắng da vì bởi má cưng Trắng da vì bởi má cưng Đen da vì bởi lội bưng nhổ bàng Dị bản Trắng da vì bởi má cưng Đen da vì bởi lội bưng vớt bèo Trắng da vì bởi má cưng Đen da vì bởi lội bưng tát bàu Thương thay cho kiếp dã tràng Thương thay cho kiếp dã tràng Sông sâu biển rộng, muôn ngàn sóng xao Tháng ngày cực nhọc xiết bao Một mình quần quật lấp sao cho bằng Sò huyết Bãi Ngao, thạch cao Đá Trắng Sò huyết Bãi Ngao Thạch cao Đá Trắng Rủ lên Đá Trắng ăn xoài Rủ lên Đá Trắng ăn xoài Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì Thuốc nào ngon bằng thuốc lá Lỗ Quy Nhơn cùng tắc biến phải đi lượm tàn Dầu rằng da trắng tóc mây Dầu rằng da trắng tóc mây Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa Vợ ta dù có quê mùa Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng Dã tràng xe cát biển Đông Dã tràng xe cát biển Đông Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì Dã tràng Còn gọi là dạ tràng, một loài giáp xác nhỏ giống con cáy sống ở bãi cát ven biển, hàng ngày vê cát thành từng viên nhỏ để tìm kiếm thức ăn khi thủy triều xuống, nhưng khi thủy triều lên lại đánh tan hết. Đọc thêm về sự tích con dã tràng. Dã tràng xe cát Lọ là Chẳng lọ, chẳng cứ gì, chẳng cần, hà tất từ cũ. Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! Truyện Kiều Thiên Đơn vị đo lường thóc gạo. Mỗi thiên bằng một trăm giạ. "Tinh thần khoa trương, tự hào của người lưu dân cũng được thấy biểu lộ trong ngôn ngữ thường nhật bằng cách ngoa ngữ, nghĩa là họ nói quá đi. ... Thí dụ như 10 giạ lúa thì gọi là "một trăm lúa"; còn 100 giạ thì gọi là "một thiên lúa", tức 1000 giạ." Văn truyền khẩu trên đất Đồng Nai - Nguyễn Văn Hầu Nhiêu Chức vị ở làng xã thời phong kiến, thường phải bỏ tiền ra mua để được quyền miễn tạp dịch. Rày Nay, bây giờ phương ngữ. Chàng ràng Quanh quẩn, vướng bận, chậm chạp để kéo dài thời gian hoặc gây chú ý. Rau chành Rau vặt vãnh phương ngữ Bắc Trung Bộ. Mâm gành cỗ gơ Mâm gỗ, cỗ được xếp thành nhiều tầng phương ngữ Bắc Trung Bộ. Tùng Cây thuộc họ thông, thân và tán có dáng đẹp. Tùng có rất nhiều loại, có loại cao lớn, cũng có loại làm cảnh nhỏ. Theo quan điểm Nho giáo, cây tùng thường được ví với lòng kiên trinh, người quân tử. Loại tùng bách mọc trên núi Lựu Một loại cây ăn quả có hoa màu đỏ tươi, thường nở vào mùa hè. Quả khi chín có màu vàng hoặc đỏ, trong có rất nhiều hạt tròn mọng, sắc hồng trắng, vị ngọt thơm. Vỏ, thân, rễ lựu còn là những vị thuốc Đông y. Dưới trăng quyên đã gọi hè Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông Truyện Kiều Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. Hoa lựu Quả lựu Nho sĩ Người theo học chữ Nho, đạo Nho. Thường dùng để chỉ học trò thời xưa. Nghiên Đồ dùng để mài mực hoặc son khi viết chữ Hán hoặc gần đây là thư pháp. Bút và nghiên mực Tàu Bảng vàng Từ chữ kim bảng 金榜, chỉ tấm biển đề tên những thí sinh thi đỗ dưới thời phong kiến. "Chiếm bảng vàng" hay "giật bảng vàng" vì thế nghĩa là thi cử đỗ đạt. Quế hòe Đời Ngũ đại Trung Quốc ở hạt Yên Sơn có người tên là Đậu Vũ Quân sinh được năm người con đều đỗ đạt, người đời gọi là Yên Sơn ngũ quế năm cây quế ở Yên Sơn. Đến đời Tống lại có Vương Hựu trồng trước sân ba cây hòe, nguyện rằng "Con ta sau sẽ làm quan tam công," về sau quả nhiên con là Vương Đán làm đến tể tướng. "Quế hòe" hoặc sân quế sân hòe vì thế chỉ việc con cái phát đạt. Cống Học vị dành cho những người thi đỗ khoa thi Hương dưới chế độ phong kiến. Nào có ra gì cái chữ Nho Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co Chữ Nho - Tú Xương Nghè Tên gọi dân gian của học vị Tiến sĩ dưới chế độ phong kiến. Vinh quy Trở về một cách vẻ vang thường nói về người thi đỗ các khoa thi xưa kia. Từ này thường được dùng trong cụm "vinh quy bái tổ" trở về bái lạy tổ tiên. Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy Hai bên có lính hầu đi dẹp đường. Tôi ra đón tận gốc bàng Chồng tôi xuống ngựa, cả làng ra xem. Thời trước - Nguyễn Bính Chúc minh Sáng rỡ chúc 燭 là ngọn đuốc. Ba đào Sóng gió, chỉ sự nguy hiểm, bất trắc từ Hán Việt. Bậu Cũng nói là em bậu, tiếng gọi người tiếp chuyện với mình, khác giới tính, có ý thương mến, thân mật. Cách xưng hô "qua, bậu" thường được dùng trong quan hệ vợ chồng, người yêu phương ngữ Nam Bộ. Bưng Vùng đồng lầy ngập nước, mọc nhiều cỏ lác. Từ này có gốc từ tiếng Khmer trapéang vũng, ao, ban đầu đọc là trà bang, trà vang, sau rút lại còn bang rồi biến âm thành bưng. Bưng cũng thường được kết hợp với biền biến âm của biên thành bưng biền. Cỏ bàng Còn gọi là cói bàng hay gọi tắt là bàng, một loài cỏ cao, thân rỗng, thường mọc thành đồng những vùng đất nhiễm phèn miền Tây Nam Bộ. Củ bàng có thể ăn thay cơm, thân bàng dùng để đan nhiều đồ dùng hữu ích như đệm lót, giỏ xách, bao cà ròn, nón, võng, nóp một loại nệm nằm, thậm chí cả buồm cho tàu ghe hay áo mặc. Nghề đan bàng do đó là nghề kiếm sống của nhiều người dân Nam Bộ trước đây, hiện đang được phục hồi sau một thời gian mai một, chủ yếu tập trung vào chế tác hàng mỹ nghệ. Đêm đêm trong ánh trăng mờ Gần xa rộn tiếng nhặt thưa giã bàng Trường ca Đồng Tháp Mười - Nguyễn Bính Đồng cỏ bàng ở Mộc Hoá, Long An Đan đươn bàng Bàu Chỗ sâu trũng như ao vũng, thường ở ngoài đồng. Bàu sen ở Mũi Né, Bình Thuận Sò huyết Một loại sò, có tên như vậy vì có huyết đỏ. Sò huyết là một loại hải sản rất tốt cho sức khỏe, và được chế biến thành nhiều món ăn ngon như sò huyết nướng, cháo sò huyết... Ngày xưa sò huyết còn dùng để tiến vua. Sò huyết Bãi Ngao Tên một phần thuộc xã An Hiệp, huyện Tuy An của đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên. Có tên như vậy vì ở đây rất nhiều nghêu sò, đặc biệt là sò huyết, một đặc sản của đầm Ô Loan. Đầm Ô Loan Đá Trắng Một ngọn núi nay thuộc xã An Dân, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Tại đây có chùa Đá Trắng Bạch Thạc Tự, hoặc chùa Từ Quang được xây dựng từ năm 1797, xung quanh là một vườn trồng giống xoài quý cũng có tên là xoài Đá Trắng. Tương truyền, xoài Đá Trắng trái nhỏ, vỏ mỏng, cùi ngọt lịm, để được lâu, hương không phai, mùa quả chín, mùi thơm đặc trưng bay xa vài trăm mét. Đặc biệt, các giống xoài khác khi ra hoa màu vàng, xoài Đá Trắng xưa thì hoa màu trắng và duy chỉ những cây trồng trong khuôn viên chùa thì quả mới có những đặc điểm quý hiếm kia. Thời Nguyễn đây là vật phẩm tiến vua. Mỗi năm vào tết Đoan Ngọ tỉnh Phú Yên phải dâng vua từ 1000 đến 2000 quả xoài. Chùa Đá Trắng Thiên Thai Tên một ngôi chùa nay thuộc thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Thuốc lá Lỗ Quy Thuốc lá trồng ở thôn Kỳ Lộ, hiện nay thuộc xã Xuân Quang 1, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thuốc lá Lỗ Quy nổi tiếng thơm ngon từ lâu đời, và được mệnh danh là "xì gà đất Phú." Nhơn cùng tắc biến Người gặp lúc lúc nguy khốn, tất sẽ nghĩ ra cách để ứng phó thành ngữ Hán Việt.
Truyện Dã Tràng xe cát biển Đông là truyện cổ tích Việt Nam nổi tiếng, giải thích nguồn gốc và công việc ngày ngày xe cát lấp biển của con Dã Tràng. Dưới đây là nội dung và ý nghĩa câu chuyện Dã tràng xe cát làm gì và nghĩa là gì? Hẳn ai cũng biết dã tràng là một loài thuộc bộ giáp xác, sống gần biển, có tập tính vê cát thành viên nhỏ để kiếm ăn. Loài động vật này còn có tên gọi khác là “còng”, “còng gió”. Về tên gọi “dã tràng” của loài động vật này, có lẽ ai cũng nghĩ nguồn gốc từ tiếng Việt… Thật ra, “dã tràng” là một từ gốc Hán. Âm Hán Việt hiện đại của “dã tràng” là “dã trường”. “Dã tràng” là do đọc chệch “dã trường” mà thành. Vì như đã biết, hiện tượng biến âm /ương/ – /ang/ khá phổ biến trong tiếng Việt, như lên đường – lên đàng, đường hoàng – đàng hoàng, cầu Trường Tiền – cầu Tràng Tiền,… Liên quan đến loài giáp xác họ hàng với cua, cáy này, trong tiếng Việt có thành ngữ “dã tràng xe cát”, “công dã tràng”. Chúng được dùng với nghĩa “những việc khó nhọc mà vô ích”. Không ít người cho rằng, ý nghĩa trên bắt nguồn từ thực tế tập tính vê cát tìm thức ăn của loài dã tràng vì gần bờ biển nên những viên cát mà dã tràng vê chưa xong đã bị sóng đánh vỡ hết. Thực ra, ý nghĩa trên bắt nguồn từ một câu chuyện sâu xa hơn mà dân gian đã kể lại trong “Sự tích con dã tràng”. Chuyện khá dài, đại ý, ngày xưa có vợ chồng ông Dã Tràng. Nhờ cứu rắn, ông được trả ơn viên ngọc có thể nghe được tiếng nói của các loài. Nhờ viên ngọc này, ông cứu được gia đình ngỗng khỏi nạn bị giết thịt. Do đó, ngỗng tặng ông viên ngọc giúp đi được dưới nước. Long Vương lo sợ bèn lập kế, lừa vợ Dã Tràng cướp hai viên ngọc quý của ông. Biết ngọc đã mất, vừa tiếc nuối vừa căm giận, Dã Tràng quyết đòi lại bảo vật bằng cách làm nhà gần biển, ngày ngày xe cát lấp biển mở đường xuống thủy cung đòi ngọc. Mọi người can ngăn nhưng không được. Dã Tràng vẫn ngày ngày xe cát, đến lúc chết đi vẫn chẳng nên việc gì. Ông chết hóa thành con dã tràng. Cho nên, dân gian mới có câu “Dã Tràng xe cát biển Đông/ Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì”. Truyện này có mô típ khá phổ biến ở nhiều nền văn hóa. Vào văn chương và ngôn ngữ đời sống, “dã tràng” trở thành một điển cố. Tuy nhiên, vì được sử dụng phổ biến, lại gắn liền với hình ảnh con dã tràng, điển này đã dần bị “từ hóa”, được dùng như một từ bình thường. Nội dung truyện sự tích Dã tràng xe cát biển đông Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn nhà họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột xác, nên mình mẩy nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn. Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột xác nằm im thim thíp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau có một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại, rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bò con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn mới, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ, khiến cho con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng trong thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó, ông không thèm để ý đến hang rắn nữa. Chừng dăm ngày sau, một hôm, Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn tới gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói – Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này, chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng vừa rồi nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe hiểu được mọi tiếng muông chim ở thế gian. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời. Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, bỗng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này – Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng chừa một tý gì. Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo lên om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã làm hại mình không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp lấy mũi tên có đề tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục. Truyện Dã Tràng Xe Cát Biển Đông – Nội Dung và Ý Nghĩa Dã Tràng bị bắt bất ngờ hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cứ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng. Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh để vua phân xử. Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điệu đi. Dọc đường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm, buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện về nhau – Nhanh lên! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả. Một con khác hỏi – Của ai mang đến bỏ vương vãi thế nhỉ? Con nọ trả lời – Của vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp nước bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên cương thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác, cho nên chúng mình tha hồ chén. Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính đến dẫn ông lên đường, Dã Tràng bảo họ – Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn không nên bận tâm, mà giờ đây có một việc quốc gia trọng đại và cấp bách nữa, cần tính liệu gấp. Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan mình mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng vua Hiền Đế ở phương Bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng gạn hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình cam đoan rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên phóng thích cho ông. Thế là những đội quân do thám được lệnh đi khắp các ngả để lấy thông tin. Chỉ nội ngày hôm sau, Dã Tràng đã được thả vì những lời tiết lộ của ông quả đúng và vừa vặn để chuẩn bị đối phó với địch. Truyện sự tích con Dã Tràng Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân. Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất thương cảm. Thấy bữa ăn tối thiết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ – Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường. Người vợ bằng lòng, nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay. Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái – Mình ơi! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho ông chủ bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con – Các con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa. Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được. Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội, chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng, chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại. Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy, rồi vươn cổ để cho chủ bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói – Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này. Truyện Dã Tràng Xe Cát Biển Đông – Nội Dung và Ý Nghĩa Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn. Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tráng một viên ngọc và nói – Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển. Ngỗng lại nói tiếp – Còn như con tép là vật đã thế mạng cho chúng tôi, thì kể từ nay về sau, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn! Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về. Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần xuống nước. Thì lạ thay, nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu, rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần thử xem thế nào. Hôm đó, Long vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ, bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác tự nhiên rung động, cơ hồ muốn đổ sập xuống. Ai nấy đều nháo nhá,c không hiểu duyên cớ vì sao. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình. Bộ hạ Long vương đi theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi một lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu ngườ,i nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo, mời ông xuống chơi thủy phủ. Gặp Long vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mắt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa! Vì thế, Long vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy. Cho đến lúc ông ra về, Long vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong ông nể mặt. Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ. Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi, Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội quá nên ông đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông không thể nào còn an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ viết để lại gài ở chỗ treo án. Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long vương thì sẽ được phong làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính cho cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ rõ đường lối đến cung điện của Long vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển để làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Truyện Sự tích con Dã Tràng xe cát biển Đông Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con Dã Tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển. Câu nói dân gian về Dã Tràng xe cát biển đônát Dã Tràng xe cát biển Đông, Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. hay như Công Dã Tràng hàng ngày xe cát, Sóng biển dồn tan tác còn chi. hoặc là Con còng còng dại lắm không khôn, Luống công xe cát sóng dồn lại tan. Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó như ăn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang cho Dã Tràng để nhớ ơn cứu mạng. Xem thêm Truyện Sự Tích Con Muỗi – Nội Dung và Ý Nghĩa Truyện
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong. Vì mới lột nên mình mẩy nó yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc lâu, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn. Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột nằm im thim thíp, lốt da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu, rắn vợ trở về, theo sau có một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực một mình bò vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Ông cảm thấy ngứa mắt, muốn trừ bò con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn mới, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng trong thương có lẫn cả giận, nên ông chán nản bỏ đi về nhà. Từ đó, ông không thèm để ý đến hang rắn nữa. Chừng dăm ngày sau, một hôm, Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì bỗng nghe trên máng nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vườn tới gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói - Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên máng này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng vừa rồi nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc nghe này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe hiểu được mọi tiếng muông chim ở thế gian. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời. Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, bỗng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng như thế này - Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng tôi với. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng chừa một tý gì. Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo lên om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã làm hại mình không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình, ông bèn lấy cung tên ra bắn vào chúng. Chủ ý là để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân liền cắp lấy mũi tên có đề tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục. Dã Tràng bị bắt bất ngờ hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cứ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng. Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh để vua phân xử. Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điệu đi. Dọc đường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện về nhau - Nhanh lên! Chuyến này sẽ không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả. Một con khác hỏi - Của ai mang đến bỏ vương vãi thế nhỉ?. Con nọ trả lời - Của vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp nước bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa sắp đến biên cương thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy thứ khác, cho nên chúng mình tha hồ chén. Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính đến dẫn ông lên đường, Dã Tràng bảo họ - Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn không nên bận tâm, mà giờ đây có một việc quốc gia trọng đại và cấp bách nữa, cần tính liệu gấp. Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan mình mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng liền cho họ biết rằng vua Hiền Đế ở phương Bắc đã sai tướng cầm quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết, chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng nhưng cũng gạn hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình đoan rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên phóng thích cho ông. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngả để lấy tin. Chỉ nội ngày hôm sau, Dã Tràng đã được thả vì lời mách của ông quả đúng và vừa vặn để chuẩn bị đối phó với địch. Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng-hoa. Ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân. Gặp lại bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất thương cảm. Thấy bữa ăn tối thiết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ - Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường. Người vợ bằng lòng nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay. Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái - Mình ôi! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt. Ngỗng mái không nghe, xin chết thay chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, nên chạy ra sân từ giã đàn con - Con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha sẽ không bao giờ gặp lại các con nữa. Song ngỗng mái vẫn lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được. Lúc bấy giờ Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại. Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên, vào khoảng canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói - Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta lọ phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này. Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn. Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng chực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tráng một viên ngọc và nói - Đa tạ ân nhân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển. Ngỗng lại nói tiếp - Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay, dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn! Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về. Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần xuống nước. Thì lạ thay nước rẽ ra thành một lối cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần thử xem thế nào. Hôm đó, Long vương và các triều thần đang hội họp ở thủy phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác bỗng nhiên rung động cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình. Bộ hạ Long vương đi theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi một lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thủy phủ. Gặp Long vương, Dã Tràng cho biết đó là mình chỉ mới làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mắt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thủy phủ sẽ còn gì nữa! Vì thế, Long vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy. Cho đến lúc ông ra về, Long vương còn đem vàng bạc tống tiễn rất nhiều để mong ông nể mặt. Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng chúng và luôn luôn đeo ở cổ. Một hôm Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi, Dã Tràng sờ lên cổ giật mình mới nhớ ra vì vội quá nên ông đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông không thể nào còn an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi vẫn không thấy túi ngọc đâu cả. ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy do vợ viết để lại gài ở chỗ treo án. Trong đó, vợ ông nói rằng có người của Long vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long vương thì sẽ được phong làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thủy phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính cho cát lấp biển thành một con đường đi xuống thủy phủ để lấy lại túi ngọc vì ông còn nhớ rõ đường lối đến cung điện của Long vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng không nghe, bèn dọn nhà ra bờ biển để làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho tận đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hóa thành con còng còng hay cũng gọi là con dã tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển. ST
Dân gian Việt Nam có câu “Dã Tràng xe cát biển Đông”. Hãy cùng đọc truyện cổ tích Sự tích con Dã Tràng để tìm hiểu về nguyên nhân và ý nghĩa của câu nói này nhé! Truyện cổ tích Sự tích con Dã Tràng Ngày xưa, có hai vợ chồng ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn có một cái hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con rắng chồng bò ra khỏi hang một mình. Ông nhìn thấy rắn vợ nằm cuộn ở trong, vì mới lột nên mình mẩy của nó còn yếu ớt không cựa quậy được. Một lúc sau, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho rắn vợ ăn. Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình. Lần này rắn chồng đến kỳ lột nằm im thin thít. Hồi lâu rắn vợ trở về, theo sau rắn vợ thấy một con rắn đực khác khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực bò một mình vào hang. Dã Tràng biết con rắn đực này toan làm gì rồi. Tự nhiên ông thấy ngứa mắt muốn trừ bỏ con rắn đó đi để cứu con rắn chồng đang lúc suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhắm vào con rắn đực mới đến, bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ làm nó chết tươi. Con rắn đực kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng trong thương có lẫn cái giận, nên ông chán nản bỏ về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữa. Chừng một năm sau, một hôm, Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng con rắn cho vợ nghe và kể những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt thì tự nhiên nghe trên mái nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn xuống tới gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói – Ông là ân nhân mà tôi cứ tưởng là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên mái nhà này chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện rõ ràng, tôi mới biết là mình lầm. Xin biếu ông viên ngọc này. Đeo nó vào mình thì có thể nghe hiểu được tiếng muông thú trên thế gian này. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó ông không bao giờ rời. Một hôm, Dã Tràng đang hái rau, tự dưng có một bầy quạ đến đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện xôn xao. Chúng nó bảo Dã Tràng rằng ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy lên đó lấy về mà ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng nó. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để lại bộ ruột dê cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người hàng xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng chừa một tí gì. Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng đánh lừa bèn đổ xô đến vườn ông réo om lên. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã hại mình không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình, ông bèn lấy cung tên bắn vào chúng. Chủ ý để đuổi chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ân, liền cắp lấy mũi tên có đề tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một cái xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên, liền đoán ngay Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục. Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điệu đi. Dọc đường trời tối, bọn lính dừng lại ăn uống nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau – Nhanh lên! Chuyến này không lo đói nữa mà cũng chả sợ ai đánh đuổi cả. Một con khác hỏi – Của ai mang đến bỏ vương vãi thế? Con nọ trả lời – Của vua nước bên kia. Họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt, nhưng xe thóc vừa đến biên giới thì bị sụp hầm đổ hết. Họ đang trở về lấy lương khác cho nên chúng ta tha hồ chén. Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc giục lên đường, Dã Tràng bảo họ – Xin các ông bẩm lại với quan rằng việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn, không nên bận tâm, mà giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, và còn cấp bách nữa là khác. Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài rằng hễ có mặt quan thì mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng mới cho họ biết rằng vua Hiến Đế ở phương Bắc đã sai tướng mang quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân ở đầy biên giới, chỉ vì sụp hầm, xe lương đổ hết chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận chuyển thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt ải sang Nam. Bọn quan tỉnh lấy làm lo lắng, nhưng cũng cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà quả quyết rằng, nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó, những tên quân do thám được tung đi tới tấp để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sau và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch. Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà. Bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa. Ông tìm cách vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân. Khi gặp bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết. Nghe tin ông bị tra tấn gông cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì, Trần Anh xuống bếp bảo vợ – Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chẳng có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con, ngày mai đãi bạn lên đường. Người vợ đồng ý, nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và cắt tiết vặt lông giúp mình một tay. Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái – Mình ơi! Mình hãy ở lại nuôi con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt!… Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất quyết hy sinh, chạy ra sân từ giã đàn con – Con ơi! Các con ở lại với mẹ nghe. Cha không bao giờ gặp lại các con nữa!… Nhưng ngỗng mái lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng cho bằng được. Lúc ấy Dã Tràng nằm trên bộ ván đặt gần cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn bắt thì sẽ cản lại. Suốt đêm hôm đó tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên vào canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng. Ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói – Xin bạn thả nó ra. Tính tôi không hay sát sinh. Tình bạn của chúng ta đâu phải có cỗ bàn mới thân sao? Nếu bạn giết nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này. Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, ròi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn. Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng nhà ngỗng cùng với đàn con đứng chực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói – Đa tạ ân cứu mạng. Không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng ngời viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển. Ngỗng lại nói tiếp – Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng thôi thì từ nay dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn. Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy ngọc rồi về. Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên quần áo đi xuống nước. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để xem hiệu quả thế nào. Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thuỷ phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác tự nhiên rung động, cơ hồ muốn đổ. Ai nấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ. Vua lập tức truyền cho thuộc hạ đi dò la sự tình. Bộ hạ Long Vương theo con đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người, nhức óc. Tuy biết thủ phạm, họ cũng không dám làm gì cả, chỉ tiến đến dùng lời khéo mời ông xuống chơi thuỷ cung. Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết là mình chỉ làm thử để xem phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thuỷ phủ sẽ không còn gì nữa. Vì thế, Long Vương đã tiếp đãi Dã Tràng rất hậu, ông muốn gì có nấy. Cho đến lúc ra về, Long Vương đem vàng bạc cống tiến rất nhiều để mong ông nể mặt. Dã Trang lên khỏi nước có thuộc hạ của Long Vương tiễn chân về tới tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không việc gì mà lại còn trở nên giàu có thì ai cũng lấy làm mừng. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông may một cái túi đựng nó và luôn đeo ở cổ. Một hôm, Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà một người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi, Dã Tràng sờ lên cổ mình mới nhớ là mình vì quá vội vã nên đã bỏ quên mất túi ngọc ở nhà. Ông không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội cáo từ về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi không thấy túi ngọc đâu cả. Người rụng rời cả, đi tìm vợ không thấy. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi. Cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy di vợ viết để lại gài ở chỗ treo áo, trong đó vợ ông nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng cho Long Vương thì sẽ được làm hoàng hậu. Bởi vậy bà ta đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thuỷ phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt. Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi. Ông không ngờ vợ ông lại có thể như thế được. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương lại thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ báu vật, ông giận tím ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp biển thành một con đường đi xuống thuỷ phủ để lấy lại túi ngọc, vì ông còn nhớ cả đường lối đến cung điện của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn ông, ông cũng dọn nhà ra bờ biển để làm công việc đó. Ngày ngày ông xe cát chở đến bờ quyết lấp cho bằng được. Cho đến tận lúc chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Chết rồi ông hoá thành con còng còng hay cũng gọi là Dã Tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển. “Theo kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – NXB Văn Học” Truyện cổ tích sự tích con dã tràng Bài học rút ra từ truyện cổ tích “Sự tích con Dã Tràng” Câu chuyện “Sự tích con Dã Tràng” đã giải thích nguồn gốc của hành động “xe cát biển Đông” này, là để lấp biển thành một con đường đi xuống thuỷ phủ để lấy lại túi ngọc. Nhưng Dã Tràng có lấp biển thành công không? Không bao giờ, vì sức của ông chỉ có hạn, mỗi lần ông chỉ chở được một xe cát nhỏ, mà biển Đông thì vô cùng rộng lớn. Qua đây ta có thể thấy, hành động “xe cát biển Đông” là một hành động vô ích và lãng phí thời gian. Việc xe cát lấp biển Đông là một công việc nhọc nhằn mà không mang lại kết quả gì. Câu chuyện cũng chế giễu những người thiếu suy nghĩ, làm những việc vô ích Dân gian Việt Nam có câu Dã tràng xe cát biển Đông Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì Đồng thời, câu chuyện cũng khuyên nhủ chúng ta phải biết suy nghĩ chín chắn trước khi làm bất cứ việc gì, phải biết phân tích tình hình, đưa ra kế hoạch rõ ràng để đạt được mục tiêu, không nên làm những việc phi thực tế. Thảo Duyên Blog Con Mọn
sự tích dã tràng xe cát biển đông