Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước, Là trung tâm trạng, khổ nào thì cũng lặng lẽ u ảm đạm. (Lê Vy) Hai khổ cuối của bài bác thơ vẫn góp phần tạo nên điều ấy: …Bèo dạt về đâu sản phẩm nối hàng; Mênh mông ko một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút ít
c) Kết bài: Nêu cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài thơ Tràng giang. Mở Bài Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang SCR.VN san sẻ thêm đến bạn đọc những mẫu Mở Bài Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang hay nhất để bạn có được cho mình phần mở bài thâm thúy và ý
Bài thơ " Tràng Giang" là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và tình thơ Huy Cận. Như Voltaire từng nói: "Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm". Và Tràng Giang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ "vừa cổ điển vừa hiện đại".
Tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác. Tràng giang còn gợi nên được hình ảnh một con sông dài và rộng, vừa là tràng giang, vừa là đại giang. Phải chăng, đấy là sông Hồng, bền bỉ muôn đời, đã từng chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử?
Phân phối chứng chỉ quỹ mở; Dịch vụ phân tích; Trang chủ > Trung tâm phân tích > Rồng Việt nhận định > Góc nhật ký chuyên viên > Ngành: TỔNG HỢP: Nhựa Bình Minh : Bài toán chi phí đang làm khó doanh nghiệp: PLC - Thương vụ sáp nhập lớn trong ngành nhựa đường cuối
Bài giảng: Tràng giang. Phân tích khổ 2 trong bài thơ Tràng Giang - mẫu 1. Không tha thiết, nồng nàn như Xuân Dệu, cũng chẳng điên cuồng lãng mạn như Hàn Mặc Tử, thơ của Huy Cận là một nỗi buồn mênh mông vô tận, buồn từ tâm hồn đến cảnh vật. Mở đầu bài thơ Nhà
Mở bài Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Tràng Giang. Huy Cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu mộng của mình để lượm lặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ. Tràng Giang có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong
2qWx. Dàn ý phân tích bài thơ Tràng GiangPhân tích tác phẩm Tràng Giang – Mẫu 1Phân tích tác phẩm Tràng Giang – Mẫu 2Mở bài– Giới thiệu tác phẩm “Tràng giang” của nhà thơ Huy bài– Hoàn cảnh sáng tác của “Tràng giang” Tháng 9/1938, trong một buổi chiều khi tác giả đạp xe ra bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy.– Bố cục của bài thơ Gồm 4 khổKhổ 1 khung cảnh sông nước mênh mông, bất 2 cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng 3 cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang 4 tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơPhân tích khổ 1– Từ láy “điệp điệp” kết hợp cùng trạng thái buồn Nỗi buồn mênh mang lan tỏa như những đợt sóng trên sông nước.– Hình ảnh thuyền và nước luôn gắn bó nhưng được tác giả đặt trong cảnh đối lập “thuyền về, nước lại” tạo ra cảnh chia ly đầy sầu bi, sầu vì không biết chọn hướng nào.– Với phép đảo ngữ “củi một cành khô” và phép đối lập “một – mấy” làm tăng lên nỗi buồn lênh đênh vô định của nhà tích khổ 2– Nhà thơ không chỉ cảm nhận thân phận bé nhỏ của mình trước cái mênh mông của sông nước mà còn cảm nhận được nỗi buồn hiu quạnh khi nhìn ra xung quanh.– Hai câu thơ đầu thể hiện một làng quê buồn thiu, đìu hiu, vắng lặng và thiếu sức sống.– Nỗi buồn cô đơn ấy còn được tác giả tăng thêm sức bật bằng câu hỏi tư từ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Chợ là nơi ồn ào nhất mà cũng không thể nghe thấy, hay chăng phiên chợ ấy cũng bị cảnh buồn hiu quạnh làm cho yên tĩnh đến lặng người như thế.– Miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót vót” “Sâu” ở đây gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng tích khổ 3– Ta thấy ở đây có sự chuyển động không yên tĩnh như ở khổ thơ thứ hai, nhưng sự chuyển động này là sự chuyển động của những cánh “bèo” – ám chỉ những kiếp người lang thang không biết đâu là bờ.– Điệp từ “không” nhằm nhấn mạnh sự trống trải đến vô cùng của những vật vô tri vô giác “bờ lau tiếp bãi vàng”.Phân tích khổ 4– Với bút pháp cách điệu như thơ cổ điển, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thủy mặc hùng vĩ của thiên nhiên..– Qua việc dùng từ láy “dợn dợn và hình ảnh “vời con nước” tác giả làm bật lên lại nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà một cách da bài– Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của các tích tác phẩm Tràng Giang – Mẫu 1Mỗi nhà thơ trong phong trào thơ mới đều có những đặc sắc riêng nếu Xuân Diệu đặc sắc với thơ tình cháy bỏng, Chế Lan Viên với những suy tưởng mang màu sắc triết lý, Hàn Mặc Tử với tâm hồn lẫn lộn giữa cõi mộng và thực, Nguyễn Bính với hồn quê chân chất thì Huy Cận lại là hồn thơ mang đậm nỗi buồn nhân thế. Và bài thơ đặc sắc nhất thể hiện rõ nhất chất thơ của Huy Cận vào thời đó là bài thơ Tràng thơ Tràng Giang được nhà thơ viết vào tháng 9 năm 1938, trong một buổi chiều khi tác giả đạp xe ra bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy – Đó không chỉ là nhìn cái mênh mông của dòng sông mà buồn cho một kiếp người nhỏ bé mà còn là nỗi buồn của người thanh niên vẫn chưa tìm thấy ánh sáng của cuộc đời, vẫn còn sống trong một kiếp nô lệ. Toàn bộ bài thơ đều bao phủ một nỗi buồn man mác, nhưng mỗi khổ thơ đều có một ý riêng. Nếu khổ một là khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận, khổ hai là cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều, khổ ba là cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng thì khổ bốn là tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ. Khi nhìn dòng sông đang cuồn cuộn chảy, tác giả thấy đời người mênh mông quá, vũ trụ bao la quá, ngẫm lại phận mình vẫn đang sống trong kiếp lầm than, tác giả thốt lênSóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòngCâu thơ đầu tiên đã gợi lên cái buồn mênh mang của nhân thế bằng cách dùng từ láy “điệp điệp”, rồi vầng ang của “tràng giang” và không những thế tác giả còn cho cái buồn đó vỗ sóng nhẹ vào nhau để tăng thêm sự lan tỏa của cảm xúc buồn. Giữa bầu trời buồn mênh mang đó có một con thuyền vô định trôi, trôi mãi, phải chăng đó là nỗi buồn cho thân phận nổi trôi của những kiếp người mất phương hướng. Hình ảnh thuyền và nước luôn gắn bó nhưng được tác giả đặt trong cảnh đối lập “thuyền về, nước lại” tạo ra cảnh chia ly đầy sầu bi, sầu vì không biết chọn hướng nàoThuyền về nước lại sầu trăm ngảTâm trạng của các nhà thơ thời kỳ đó như một kiếp người trôi nỗi long đong vô định vì nước mất, nhà tan như cành củi khô – chỉ một cành củi khô nhưng lại “lạc mấy dòng”. Với phép đảo ngữ “củi một cành khô” và phép đối lập “một – mấy” làm tăng lên nỗi buồn lênh đênh vô định của nhà thơ. Nhà thơ không chỉ cảm nhận thân phận bé nhỏ của mình trước cái mênh mông của sông nước mà còn cảm nhận được nỗi buồn hiu quạnh khi nhìn ra xung quanhLơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêuHuy Cận đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên ảm đạm, thê lương với những thành ngữ đầy cô đơn, khắc khoải như “cồn nhỏ”, “gió đìu hiu”, chợ chiều”, “bến cô liêu”. Từ bức tranh thiên nhiên ấy, ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng câu thơ đầu thể hiện một làng quê buồn thiu, đìu hiu, vắng lặng và thiếu sức sống. Âm thanh tiếng “gió đìu hiu” mà tác giả nghe rất rõ của một cồn nhỏ tạo ra một cảm giác yên tĩnh đến rợn người tạo ra sức nhấn cho một nỗi buồn cô đơn, trống trãi. Nỗi buồn cô đơn ấy còn được tác giả tăng thêm sức bật bằng câu hỏi tư từ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Chợ là nơi ồn ào nhất mà cũng không thể nghe thấy, hay chăng phiên chợ ấy cũng bị cảnh buồn hiu quạnh làm cho yên tĩnh đến lặng người như thế. Thật chua xót thay cho một làng quê nơi bến nước hoang sơ, tiêu điều không có một bóng người, không có một tiếng động. Hai câu thơ tiếp theo được tác giả dùng phép đối lập, nắng xuống đối với trời lên và sông dài đối với trời rộng cùng với hình ảnh “trời sâu chót vót” – chứ không phải “trời cao chót vót” gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng xung quanh là một nỗi trống vắng, đìu hiu đến lạnh lùng, tác giả nhìn lại dòng sông hầu mong tìm thấy sự ấm áp, quen thuộc của chiếc đò ngang từng đi qua dòng sông này nhưng hỡi ôi, thiên nhiên hiu quạnh vẫn chỉ là hiu quạnhBèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thương nhớLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàngTa thấy ở đây có sự chuyển động không yên tĩnh như ở khổ thơ thứ hai, nhưng sự chuyển động này là sự chuyển động của những cánh “bèo” – ám chỉ những kiếp người lang thang không biết đâu là bờ. Điệp từ “không” nhằm nhấn mạnh sự trống trải đến vô cùng của những vật vô tri vô giác “bờ lau tiếp bãi vàng”. Mong ngóng tìm ra một sự ấm cúng của cảnh vật nơi đây đã bị nhấn chìm bởi sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu dù có buồn đến thắt lòng đi nữa, cảnh vật bên bến sông trong một buổi chiều hoàng hôn vẫn đẹp đến nao lòng. Với bút pháp cách điệu như thơ cổ điển, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thủy mặc để cuối cùng thể hiện một cảm xúc yêu quê hương đất nước một cách kín đáoLớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhàVới việc sử dụng từ láy “lớp lớp” và các hinh ảnh “mây cao” và “núi bạc” tạo nên một khung cảnh hùng vĩ của không gian, nhưng trong khung cảnh đó có một “chim nghiêng cánh” và một “bóng chiều sa” lại tạo ra một sự đối lập sâu sắc giữa một bên là sự bao la, mênh mông của vũ trụ và một bên là phận người nhỏ bé và không vững vàng. Qua việc dùng từ láy “dợn dợn và hình ảnh “vời con nước” tác giả làm bật lên lại nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà một cách da diết mặc dù tác giả đang đứng trên mảnh đất quê hương đó. Phải chăng đó là một ẩn ý kín đáo về lòng yêu quê hương, đất nước của tác giả?Đặt bài thơ “Tràng giang” vào bối cảnh thời phong kiến thực dân của những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết giá trị độc đáo của nó. Với sự kết hợp hài hòa của bút pháp hiện đại và cổ điển – cổ điển là cách dùng những ước lệ, phép đối lập, hiện đại là cách dùng các hình ảnh tươi mới, từ láy đã tạo cho bài thơ mang một cái hồn riêng, có một sức sống riêng góp phần nâng cao sự trong sáng và giàu có của tiếng Việt cũng như khẳng định sức sống mãnh liệt của phong trào thơ mới thời bấy tích tác phẩm Tràng Giang – Mẫu 2Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Thơ của ông hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí và có âm điệu riêng. Trong suốt cuộc đời ông đã sáng tác rất nhiều tập thơ hay tiêu biểu như Lửa thiêng 1937-1940, Vũ trụ ca 1940-1942, Trời mỗi ngày lại sáng 1958,… “Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất của ông in trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ có âm điệu miên man, sâu lắng nói lên nỗi buồn của Huy Cận khi đứng trước con sông Hồng bao la, hùng vĩ, mênh mông sông Huy Cận cho biết, khi còn là sinh viên Đại học Canh nông, vào một buổi chiều thu năm 1939, ông đứng ở bờ Nam bến Chèm ngắm dòng sông Hồng mênh mang, lòng dạt dào xúc động viết bài thơ này. Đó là cảm nhận về tràng giang và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định. Ngay từ nhan đề của bài thơ, tác giả đã khéo léo sử dụng một từ Hán Việt mang sắc thái cổ điển pha lẫn hiện đại. “Tràng giang” nghĩa là con sông dài, tác giả đã sáng tạo nói chệch đi, dùng hai vần “ang” là âm mở để tạo độ vang độ ngân xà liên tiếp. Làm người đọc cảm nhận về con sông “Tràng Giang” dài vô tận, rộng mênh mông,bát ngát. Gợi cho ta liên tưởng tới dòng sông Trường Giang trong thơ Đường, đó là dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, của tâm tưởng, huyền ảo và rộng lớn. Cùng với đó, tác giả con sử dụng lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” càng làm rõ thêm không gian rộng lớn và nỗi nhớ sâu thẳm trong con người. Lời đề từ như báo trước cảm xúc nổi trội của thi nhân xuyên suốt bài thơ, để khi đọc bài thơ càng làm rõ minh chứng cho đề từ, khiến ta hiểu sâu, thấm thía khổ thơ đầu, khung cảnh trên sông nước đã được Huy Cận khắc họa rõ nétSóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy thơ đầu tiên tác giả đã nhắc lại nhan đề “tràng giang” với điệp vần “ang” tạo nên sự ngân xa, vang vọng lại cổ kính. Tràng giang – con sống dài và rộng lớn, dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp lại buồn “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những con sóng nối tiếp, nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, làm đậm thêm không gian rộng lớn bao thơ thứ hai ta lại thấy được trong không gian mênh mông toàn là nước đó lại hiện lên một “con thuyền xuôi mái nước song song”, con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo mặc cho dòng nước đẩy. Tạo nên một hình ảnh nhỏ bé, trôi nổi đối lập với không gian nước bao la, không có điểm cuối, nhấn mạnh sự cô đơn, lẻ loi, mong manh. Cặp từ láy “điệp điệp” và “song song” gợi tả một nỗi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. Dòng sông bát ngát vô tận mà nỗi buồn của con người cũng đầy ắp trong câu thơ thứ ba, ta lại gặp lại hình ảnh thuyền và nước nhưng ở đây chẳng hề có sự đồng điệu mà còn xa cách hơn. Thuyền và nước vốn liền nhau, thuyền trôi nhờ dòng nước vỗ vào thuyền, thế nhưng Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa. Nó khiến cho con người cảm thấy lòng “sầu trăm ngả”, nỗi buồn từ trong lòng người lan rộng ra khắp cảnh vật, đất trời. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số ít “mấy” đã thổi vào hồn thơ một nỗi buồn vô hạn, làm thấu rõ cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé, hữu hạn những sự đau khổ, sầu thương thì to lớn, vô thơ còn lại ta thấy được một tâm hồn trữ tình của tác giả được bộc lộ nhiều nhất qua câu thơ độc đáo “ Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh cành củi khô vừa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Nó nhỏ bé, tầm thường trôi nổi, bấp bênh cũng như số kiếp con người giữa cuộc đời đầy sóng gió. Tác giả đã khéo léo dùng phép đảo ngữ thể hiện lên nỗi cô đơn, lạc lõng giữa vũ trụ bao la, không biết trôi dạt và đâu. Ở đây, cành củi khô cũng đang ẩn dụ cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ, nhỏ bé, không có tiếng nói, mặc cho dòng đời xô đẩy, trôi dạt phương trời, kiếp người nhỏ bé, chơi vơi giữa cuộc đời dài dằng dặc. Mang cho ta nỗi sầu vô định, cảm thấy trống vắng, cô đơn giữa không gian rộng lớn không có điểm kết thuật “tả cảnh ngụ tình” thật tài hoa, khéo léo, nỗi buồn vô hạn được ví von qua những sự vật nhỏ bé tương phản với cái mênh mông, vô tận. Hình ảnh “ củi một cành khô” thâu tóm cảm xúc toàn khổ thơ, hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, nỗi niềm cô đơn, lạc lõng. Mở ra một nỗi u sầu man mác, khôn nguôi như con sóng vỗ liên tiếp, mãi ở cả những khổ thơ còn buồn ấy càng được gợi mở hơn qua cảnh hoang vắng, không gian hiu quạnhLơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng , bến cô đầu thơ với hai từ láy tượng hình “lơ thơ” và “đìu hiu” cùng với nghệ thuật đảo ngữ được tác giả khéo léo sắp xếp tạo nên một quang cảnh vắng lặng. Gợi lên sự lạnh lẽo, thưa thớt, hoang vắng tột cùng của không gian. Âm hưởng của câu thơ như trĩu lòng người về một nỗi buồn hiu hắt, cô quạnh. “Lơ thơ” thể hiện sự ít ỏi, thưa thớt, nhỏ bé, “đìu hiu” lại là sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh lạnh lẽo, lưa thưa vài “cồn nhỏ” làm con người trở nên đơn côi, ngộp ngạt đến nỗi phải thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chợ chiều vốn đã xao xác vắng bóng người, vãn chờ chiều thì càng chẳng còn bóng người nào cả, cái cảnh buồn xao xác, vắng lạnh đó càng được nâng lên gấp bội. Vậy mà giờ đây cái âm thanh xơ xác “vãn chợ chiều” ấy cũng không còn nữa. Một chút dấu hiệu của sự sống mà tác giả mong mỏi cũng chẳng còn. Từ “đâu” biểu lộ sự ngơ ngác cũng vương chút tiếc nuối của thi nhân với nỗi buồn cũng thấm đượm vào lòng người. Chỉ một câu thơ mà lại mang nhiều sắc thái, vừa như cảm thán về cảnh vật, vừa như một câu hỏi. Nó như một nỗi niềm mong mỏi của nhà thơ về một chút hoạt động, âm thanh sự sống của con là khẳng định xung quanh “đâu có” chút gì sống động để vơi bớt đi cái cô tịch của thiên hai câu thơ sau, không gian như được mở rộng về cả bốn phía làm cảnh vốn đã vắng vẻ lại càng tĩnh mịch, cô liêu. Ở đây tác giả đã sử dụng hình ảnh “nắng xuống” và “trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian lại gợi tả sự chia lìa, nắng và trời vốn gắn liền nhau lại phải tách nhau ra. Cùng với nắng và trời, còn có “sông dài”, “trời rộng”, đã vẽ lên một không gian rộng mênh mông, bát ngát, vô cùng, vô tận nhưng cảnh vật lại mang một nỗi cô đơn không diễn tả bằng lời. Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều, trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Sự sáng tạo của Huy Cận trong tính tự gợi cảm xúc, bình thường ta sẽ nói “sâu thăm thẳm” và “cao chót vót” nhưng ở đây tác giả dùng “sâu chót vót” , “bến cô liêu” làm bài thơ mang một vẻ đẹp hiện đại. Làm nổi bật lên hai tiểu đối “nắng xuống” và “trời lên”, cái thiên nhiên bao la, mênh mông còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao. Cái nhìn của nhà thơ đã không còn dừng lại ở bên ngoài của trời, của nắng mà như xuyên thấu vào vũ trụ, không gian vô cùng tận. Chính cái không gian mở rộng ra đó càng làm con người thêm nhỏ bé, hiếm hoi, nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của tâm hồn con người được thể hiện rõ nét, mọi thứ đều tan rã, chia thơ càng mở rộng phạm vi quan sát, càng mong mỏi tìm một chút gì đó quen thuộc để sưởi ấm tâm hồn trơ trọi. Thì thiên nhiên càng đáp lại ông bằng những hình ảnh quạnh quẽ, đìu hiu, cô tịch đến não dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò cần gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi hát “bèo dạt mây trôi” trong dân ca Quan họ gợi lên trong hồn ta một cảm xúc mơ hồ. Ở đây, Huy Cận lấy hình ảnh cánh bèo trôi dạt trên tràng giang biểu tượng cho sự hợp tan, bập bênh của kiếp người vô định giữa dòng đời không biết rồi sẽ đi đâu về đâu. Nhưng ở đây không chỉ có một cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”, nối tiếp nhau miên man càng khiến lòng người thêm cô đơn. Giữa cái bao la đất trời, sông nước hầu như chẳng còn bóng dáng con người nào cả, nỗi cô đơn rợn ngợp khắp bốn giả đã sử dụng lặp lại nghệ thuật phủ định “không một chuyến đò ngang” – “không cầu” giúp thể hiện ý tứ của tác giả một cách rõ ràng. Thiên nhiên nơi đây không có bất cứ thứ gì có thể gắn kết đôi bờ với nhau. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người như bị thiên nhiên nhấn chìm, không biết trôi về nơi nào. Phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Ông muốn tìm đến những hình ảnh gần gũi, thân quen trước cái không gian vô tận này nhưng lại chẳng còn dấu vết nào cả. Mong ước có phần nhỏ bé, bình dị,mong muốn được nhìn thấy những thứ thân thuộc nhưng đáp lại ông chỉ là nỗi thất vọng, cô đơn trong tâm hồn. Cảnh vật lại rơi vào khoảng không hoang vắng, lạnh lẽo. Tiếp theo cánh bèo “hàng nối hàng” thì lại là “bờ xanh tiếp bãi vàng” lại mở ra không gian hoang vu, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không có hình bóng của con người, không còn sự sống, sự giao hòa, nối kết. Chỉ một màu vàng của bãi tiếp nối với màu xanh của bờ vô tận. Cái buồn cái cô đơn của nhân vật trữ tình được diễn tả “mênh mông” và “lặng lẽ”, thiếu vắng tình người, cô đơn, lạc lõng giữa thiên nhiên vô cùng tận, thèm khát được nhìn thấy sự giao hòa của cuộc về cuối, tâm trạng của Huy Cận càng được khắc họa rõ nét hơnLớp lớp mây cao đùn núi nghiêng cánh nhỏ Bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ tranh thiên nhiên buổi chiều tà hiện lên với sự hùng vĩ, nên thơ. Hình ảnh những đám mây trắng nối tiếp nhau, “đùn” lên dưới ánh nắng chiều tà tạo nên dãy núi dát bạc, nổi bật giữa trời chiều. Tác giả đã khéo vẽ nét đẹp cổ điển xen lẫn hiện đại cho bầu trời trên cao. Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” làm hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và càng thi vị. Sử dụng tài tình động từ “đùn” khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp cứ đùn nhau. Bên cạnh đó, hình ảnh cảnh chim xuất hiện dường như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật. Động từ “nghiêng” làm bóng hoàng hôn dường như xuống quá nhanh khiến cánh chim nghiêng lệch để bay về phía chân trời xa xăm. Trong câu “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” , nét hiện đại được bộc lộ rõ qua dấu hai chấm thần tình. Nó gợi lên mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Câu thơ tả không gian nhưng lại gợi được thời gian do sử dụng hai hình ảnh đó, vì nó thường được sử dụng để tả cảnh hoàng hôn trong thơ ca cổ tranh buổi chiều tà dù đã xuất hiện cánh chim nhưng cũng chẳng thể làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm trái tim và tâm hồn thi sĩ của Huy khung cảnh cổ điển ấy mà người đọc lại bắt gặp được nét tâm trạng hiện đại. Nỗi cô đơn đã hóa thành nỗi nhớ nhà. Ở đây, Huy Cận đã sáng tạo khi sử dụng từ “dợn dợn” đã khắc họa chân thực một nỗi niềm bâng khuâng, da diết với quê hương, hô ứng với cụm từ “vờn” con nước làm bao nhiêu nỗi buồn trào dâng thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay, tác giả đang đứng trên mảnh đất quê hương mà lại nhớ quê hương đến như vậy. Đó chính là tâm trạng chung của hầu hết các nhà thơ mới, là nỗi niềm đứng trên mảnh đất thân thuộc nhưng lại cô đơn lạc lõng, nhớ quê hương da diết trước tình cảnh đất nước ta thời bấy giờ, nỗi đau xót trước cảnh mất nước. Cảm giác xa quê hương, nhớ nhung da diết chẳng cần đến “khói hoàng hôn” như thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường thì nỗi nhớ ấy cũng sẵn đong đầy, thắm thiết, trĩu nặng. Buồn mà không cần ngoại cảnh bởi nỗi buồn ấy đã sâu sắc lắm rồi, vậy mới thấy tấm lòng yêu quê hương, đất nước của nhà thơ đến nhường nào. Cái hay của nhà thơ khi đầu thơ là gợn sóng của dòng sông tràng giang hùng vĩ thì cuối thơ lại là gợn sóng của tâm hồn đang rung động, của “lòng quê” đang trực trào nỗi Giang của Huy Cận mang một vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Với bút pháp nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” cực kỳ thành công, ông đã khắc họa được một bức tranh dòng sông Hồng vô cùng rộng lớn lại hùng vĩ, nên thơ nhưng ẩn sau trong đó chính là những hình ảnh nhỏ bé “cành củi”, “cánh chim” nhỏ bé lại cô đơn, lẻ loi trong không gian bao la lại hoang vắng, hiu quạnh đó. Thể thơ thất ngôn từng khổ được sử dụng rất thuần thục và sáng tạo, nó nói lên được tài hoa của ông, vẽ lên được trong mỗi khổ thơ là một bức tranh, một nỗi niềm thầm kín mang vẻ đẹp cổ điển đậm phong vị Đường thi. Ở những câu chữ sáng tạo, độc đáo ở nhà thơ như “sâu chót vót”, “dợn dợn”, dấu hai chấm thần tình lại mang thêm nét đẹp hiện đại cho bài thơ. Thủ pháp nói tương phản nổi bật làm rõ ràng lên cảm xúc của bài thơ, đọng lại trong người đọc là cảnh thiên nhiên hùng vĩ, mênh mông nhưng nỗi buồn lại thấm đượm ở trong, nỗi cô đơn, lẻ loi, nhỏ bé. Đó đồng thời cũng thể hiện tâm hồn người con xa xứ, lòng yêu nước thầm kín của tác thơ “Tràng Giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu, hay nhất của phong trào Thơ mới. Nó thể hiện cái buồn chung của thời đại thơ ca thuở bấy giờ, nỗi buồn trong sâu thẳm con người toát ra từ cái đẹp, cái mĩ lệ của thiên nhiên. Bài thơ bồi dưỡng, nuôi đắp cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với tâm hồn dân tộc. Bài thơ sẽ còn mãi và đi vào lòng người để lại rất nhiều tình cảm, ấn tượng với phong cách rất “Huy Cận”.Quản trị viên website Với kinh nghiệm hơn 10 năm đi dạy và mong muốn tạo môi trường học tập miễn phí, tôi thành lập website này với mục đích chia sẽ kiến thức giáo dục đến học sinh các cấp tiểu học, THCS, THPT và Đại Học.
Mở bài Tràng Giang chọn lọc hay nhất giúp các em học sinh tích lũy vốn từ, hoàn thiện kỹ năng cách viết mở bài của mình một cách hoàn thiện nhất làm tiền đề để viết các bài tương tự một cách hiệu quả nhất. Dưới đây là bài viết tham khảo kính mời quý thầy cô cùng các bạn học sinh cùng đón xem. Top 10 mẫu mở bài bài Tràng Giang hay. Dưới đây là các mẫu mở bài phân tích, cảm nhận bài Tràng Giang của tác giả Huy Cận mà chuyên trang chúng tôi đã tổng hợp và chọn lọc kĩ lưỡng, mời thầy cô và các bạn cùng đón xem. Mẫu mở bài hay cho Tràng Giang số 1 Các mẫu mở bài Tràng Giang ngắn gọn, sáng tạo và ý nghĩa Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” Hoài Thanh. Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” 1940 rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận. Mẫu mở bài Tràng Giang số 2 Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của “đêm mưa”, của “người lữ thứ”, nỗi buồn của “quán chật đèo cao”, của “trời rộng sông dài”. Tràng Giang là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày nay, sau đó in vào tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự Tôi có thú vui thường chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ so sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương”. Mẫu mở bài phân tích Tràng Giang số 3 Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà “Tràng giang” ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ. Mẫu mở bài hay về Tràng Giang số 4 Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận. Mẫu mở bài cho bài Tràng Giang số 5 Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn - nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang 1939 - trích từ tập Lửa thiêng thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ. Mẫu mở bài Tràng Giang hay số 6 Mỗi người khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ… Và chỉ khi đến với “Tràng giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả. Mẫu mở bài hay cho Tràng Giang số 7 Nếu như đã từng một lần đứng trước những dòng sông vào những buổi chiều ta, chắc chắn trong lòng mỗi chúng ta đều có những cảm xúc vô cùng dạt dào, da diết. Đó có thể là nỗi buồn vô định trước bao la mây trời sông nước,cũng có thể là nỗi nhớ quê hương, gia đình. Với nhà thơ Huy Cận cũng vậy, đứng trước dòng sông Hồng mặn mà phù sa vào lúc hoàng hôn, cảm xúc dâng trào. Để rồi chàng thanh niên 20 tuổi khi ấy đã viết lên những dòng thơ vô cùng thi vị và giàu cảm xúc trong Tràng giang. Mẫu mở bài hay về Tràng Giang số 8 Hoài Thanh đã có một nhận định về các nhà thơ mới năm 1930 “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét độc đáo riêng của mình. Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ đặc sắc và thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ. Mẫu mở bài phân tích Tràng Giang số 9 Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với một “hồn thơ ảo não”. Thơ của Huy Cận luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi những khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mang và luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Bài thơ “Tràng giang” in trong tập “Lửa thiêng” là một trong số những sáng tác tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Mẫu mở bài bài Tràng Giang số 10 Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới 1930-1945 với những tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Tải mở bài Tràng Giang file word, pdf miễn phí Trên đây là toàn bộ phần hướng dẫn cách làm mở bài Tràng Giang mong rằng sẽ là những bài tham khảo, tư liệu bổ ích nhất giúp các em học tốt hơn môn ngữ văn lớp 12.
Phân Tích Tràng Giang Huy Cận ❤️️ 28 Bài Văn Ngắn Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Các Mẫu Văn Cảm Nhận Và Phân Tích Đặc Sắc Giúp Bạn Đạt Điểm Cao. Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Của Huy CậnPhân Tích Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2Phân Tích Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3Phân Tích Tràng Giang Ngắn Gọn Súc Tích – Mẫu 4Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Ngắn Nhất – Mẫu 5Bài Văn Phân Tích Tràng Giang Chi Tiết – Mẫu 6Phân Tích Chi Tiết Bài Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 7Phân Tích Chi Tiết Tràng Giang Chọn Lọc – Mẫu 8Tràng Giang Phân Tích Đầy Đủ Nhất – Mẫu 9Phân Tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 10Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Học Sinh Giỏi Điểm Cao – Mẫu 11Phân Tích Bài Tràng Giang Nâng Cao – Mẫu 12Phân Tích Đoạn Thơ Tràng Giang Ý Nghĩa – Mẫu 13Tràng Giang Huy Cận Phân Tích Mở Rộng – Mẫu 14Phân Tích Văn Bản Tràng Giang Luyện Viết – Mẫu 15Phân Tích Thơ Tràng Giang Đơn Giản – Mẫu 16Phân Tích Tác Phẩm Tràng Giang Ngắn Hay – Mẫu 17Phân Tích Bài Tràng Giang Lớp 11 – Mẫu 18Bài Văn Phân Tích Tràng Giang 11 Ấn Tượng – Mẫu 19Phân Tích Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 20Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 – Mẫu 21Phân Tích Tràng Giang Khổ 2 – Mẫu 22Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 – Mẫu 23Phân Tích Tràng Giang Khổ 4 – Mẫu 24Phân Tích Tràng Giang Khổ Cuối – Mẫu 25Phân Tích Tràng Giang 2 Khổ Đầu – Mẫu 26Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 – Mẫu 27Phân Tích Tràng Giang 2 Khổ Cuối – Mẫu 28 Tặng bạn mẫu văn phân tích bài thơ Tràng giang đặc sắc nhất. Tham khảo ngay nhé! I. Mở bài phân tích Tràng giang Giới thiệu những nét chính về tác giả Huy Cận đặc điểm tiểu sử, con người, các sáng tác tiêu biểu, đặc điểm sáng tác,…Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tràng giang” cần phân tích hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, khái quát những nét cơ bản về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,… II. Thân bài phân tích Tràng giang a. Phân tích nhan đề và câu thơ đề từ bài “Tràng giang” -Phân tích nhan đề “Tràng giang” Một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dụng hai vần vần mở, có độ vang, độ ngân xa liên tiếp nhau, gợi lên hình ảnh một con sông vừa dài vừa rộng. -Phân tích câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” Khái quát một cách ngắn gọn, đầy đủ tình và cảnh trong bài thơ b. Phân tích khổ 1 bài Tràng giang -Hai câu đầu Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mangTừ “điệp điệp” gợi lên hình ảnh những đợt sóng cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt, tô đậm thêm không gian rộng lớn, bao ảnh con thuyền xuôi mái nước gợi lên sự nhỏ nhoiHình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. -Hai câu cuối Thuyền và nước như có một nỗi buồn chia lìa đang đón đợi, cho lòng “sầu trăm ngả”. Đặc biệt, giữa cảnh sông nước mênh mông ấy,Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” gợi lên trong lòng người đọc ám ảnh khôn nguôi về cõi nhân sinh, lạc lõng, bơ vơ, không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu -Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định, đồng thời gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả. c. Phân tích khổ 2 bài Tràng giang -Hai câu thơ đầu đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh Nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm đã gợi lên sự thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽoCâu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” là câu thơ có nhiều cách hiểu nhưng dẫu hiểu theo cách nào thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người -Hai câu sau, không gian như được mở rộng cả về bốn phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn, từ đó gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người d. Phân tích khổ 3 bài Tràng giang Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” gợi lên hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về thuật phủ định được lặp lại “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”.Ở nơi đây không có bất cứ thứ gì gắn kết đôi bờ với nhau, nó thiếu đi dấu vết của sự sống, của bóng hình con người và hơn hết là tình người, mối giao hòa, thân mật giữa con người với nhau e. Phân tích khổ 4 bài Tràng giang -Hai câu thơ đầu khổ thơ Vẽ nên một bức tranh thiên nhiên chiều tà với vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ. Hình ảnh những đám mây trắng cứ hết lớp này đến lớp khác nối tiếp nhau “đùn” lên dưới ánh nắng chiều như tạo nên những quả núi dát ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ. -Hai câu thơ cuối đã thể hiện nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả Hình ảnh “dờn dợn vời con nước” không chỉ tả những đợt sóng lan xa mà hơn thế nó còn gợi lên cảm giác buồn nhớ đến vô tận của nhà thơ – nỗi buồn của người xa xứ đang nhớ quê hương da thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ đã diễn tả một cách chân thực và rõ nét niềm thương nhớ quê hương đất nước của nhà thơ III. Kết bài phân tích Tràng giang Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và những cảm nhận của bản thân. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Bài Tràng Giang Chuẩn Nhất 🍀 Mẫu Nghị Luận Phân Tích Hay Phân Tích Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1 Tham khảo bài văn mẫu phân tích Tràng giang Huy Cận dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được định hướng làm bài cụ thể. Tràng Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên. 4 câu thơ trong đoạn đầu hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả,Củi một cành khô lạc mấy dòng. Câu thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của con người. Từ “ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng. Dòng sông ấy có từ “gợn” chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người, có thể nói có bao nhiêu sóng gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Điệp từ “điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng triền miên. “Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền xuôi mái nổi bật giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “Xuôi mái” ở trạng thái bị động mặc cho dòng nước trôi. Từ láy “song song” “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử dụng cặp từ ngược hướng phải chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngả. Ở câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “cành củi khô”. Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và vô giá trị, không chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm thường nhỏ bé và đơn độc cạn kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bức pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn tả.” Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn mạnh cái sự vắng vẻ nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ có một cồn nhỏ đìu hiu vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con người. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người. Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống đối với trời lên”, “sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô liêu”. Động từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên với một trạng thái cô đơn. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Khổ thơ tiếp theo gợi nên sự vô định “cánh bèo” không phải đơn thuần là cánh bèo không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ thanh niên Việt Nam không tìm thấy hướng đi. “Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người nhưng tác giả đã nói là “không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở đây chỉ có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới. Chính nỗi niềm này đã được tác giả nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người ở đây cô đơn bất an, rợn người. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Khổ thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ, tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thấy được dấu ấn cổ điển thì ở đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không chỉ chở nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới. Đến với hai câu cuối của bài thơ “lòng quê dờn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự phủ định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết hơn, cháy bỏng hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ láy “dờn dợn” như những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận. Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc. Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Tràng Giang ☔ 12 Mẫu Phân Tích Tóm Tắt Hay Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2 Giới thiệu đến bạn bài phân tích về thơ Tràng Giang hay ấn tượng dưới đây. Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào Thơ mới, thơ Huy Cận bật lên trong phong trào Thơ Mới với nỗi buồn mênh mang, khắc khoải, đó là nỗi sầu của một cái tôi giàu ý thức, giàu suy tư về cuộc đời và con người. “Tràng giang” trích trong tập thơ “Lửa thiêng” là bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ nhất phong cách thơ của Huy Cận, trong mỗi khổ thơ đều chất chứa nỗi buồn da diết. Đặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mông, Huy Cận đã thành công khơi dậy nỗi cô đơn, cảm giác chơi vơi, lạc lõng của con người giữa dòng đời rộng lớn. Mở đầu bài thơ là những câu thơ đậm phong cách cổ điển giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu, chính những từ láy và cách gieo vần đã tạo nên âm điệu cho cả khổ thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” “Tràng giang” ở đây không chỉ nói đến một con sông dài mà còn rộng, những con sóng trên sông được miêu tả rất thật, sống động với từng gợn sóng, đọc câu thơ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” ta cảm nhận được sức gợi rất mãnh liệt, từng con sóng giống như những nỗi buồn của thi nhân, nỗi buồn ấy cứ dài rộng, triền miên theo cả không gian và thời gian. Hình ảnh con thuyền xuôi mái chèo, mặc cho sức nước đẩy đưa gợi sự lênh đênh, phó mặc số phận cuộc đời, cũng bởi con thuyền so với dòng sông là quá nhỏ bé, dòng nước “song song”, “thuyền về nước lại” chẳng hứa hẹn sự giao thoa, gặp gỡ lại mang nặng nỗi buồn chia lìa, xa cách. Ta cảm nhận được sự mới mẻ hiện đại trong “Tràng giang” bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ bé, vô nghĩa như “củi một cành khô”, đã là củi nhưng cũng chỉ có một cành mà lại còn là củi khô, hết sức tầm thường, bé nhỏ. Hình ảnh một cành củi khô lạc trôi bồng bềnh trên dòng nước mênh mông rộng lớn gợi lên nỗi buồn về một kiếp người nhỏ bé, tầm thường. Nỗi buồn càng thấm sâu hơn vào cảnh vật khi cảnh càng hoang tàn, quạnh hiu đến nao lòng “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng gợi lên sự buồn bã, quạnh hiu, cô đơn, không gian xung quanh đều vắng vẻ, lại thêm tiếng vãn chợ chiều đằng xa, chợ chiều ngày xưa vốn đã thưa thớt, vắng vẻ, không có được cái nhộn nhịp tấp nập như chợ sáng, ngay cả tiếng chợ chiều đằng xa cũng không còn nữa, âm thanh cuộc sống của con người văng vẳng nhạt nhòa. Hai câu thơ sau gợi ra một không gian cao sâu, dài rộng mênh mông “sâu chót vót”, chiều cao dường như vô tận, “sông dài, trời rộng”, nhưng đứng giữa cái mênh mông bao la, rộng dài vô tận của vũ trụ đó lại chỉ có “bến cô liêu”, ta cảm nhận được sự cô liêu không chỉ của bến đò mà còn là sự cô liêu trong lòng người, con người nhỏ bé như bị choáng ngợp, lạc lõng giữa đất trời bao la. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Tiếp nối mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, đến đây nỗi buồn vẫn được khắc sâu vào hình ảnh bèo dạt lênh đênh, lênh đênh vô định lại thêm sự chia ly tan tác, trời rộng mênh mông nhưng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người “không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự gần gũi với con người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tác giả không dừng lại ở nỗi buồn trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, cuộc đời. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Khung cảnh trời thu với những đám mây trắng đùn lên phía cuối trời, ánh mặt trời phản chiếu lên những đám mây đó biến chúng thành những ngọn núi màu bạc trắng xóa, gợi cảnh thiên nhiên thật kỳ vĩ, tráng lệ. Thế nhưng xen giữa cái tráng lệ ấy vẫn là nỗi buồn, là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng mình, con chim bé nhỏ đơn côi lẻ bóng trong buổi chiều tà gợi nỗi niềm xa vắng nhớ thương, cảnh thiên nhiên càng hùng vĩ, rợn ngợp bao nhiêu thì nỗi buồn càng sâu lắng và khắc khoải hơn. Nỗi nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống, không thể ngừng, không thể nguôi ngoai, nỗi nhớ nhà cũng theo đó mà càng da diết, không cần khói hoàng hôn, không cần tác động ngoại cảnh cũng đủ làm cho sự nhớ nhung tràn ngập tâm hồn. Nhà thơ khát khao,được trở về quê hương, tìm một bến đỗ cho tâm hồn, tìm nơi sẻ chia sự cô đơn, trống vắng. Như vậy, xuyên suốt bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận là cả nỗi buồn cứ triền miên, vô tận, đó là cái buồn của một “cái tôi” đang cô đơn trống trải giữa thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Bài thơ mới chấm phá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc đời của nhà thơ, đồng thời là tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước. Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Mở Bài Tràng Giang 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Phân Tích Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3 Đón đọc bài văn phân tích bài Tràng giang ngắn gọn dưới đây với cách hành văn súc tích. Tràng giang là bài thơ hay nói về thiên nhiên của dòng sông, dưới con mắt của thi sĩ nó trở nên vô cùng thơ mộng và đầy tinh tế. Dưới cái nhìn đầy gợi cảm và phong phú, bài thơ đã có sự kết hợp mạnh mẽ giữa những yếu tố kì ảo và thơ mộng trữ tình, để có thể có được một bức tranh thiên nhiên đẹp hùng vĩ. Mở đầu bài thơ tác giả đã thể hiện hình ảnh sóng gợn trên con sông dài mà mang một nỗi buồn man mác, ở đây tác giả cũng đang thể hiện đúng dòng tâm trạng của mình, trước khung cảnh thiên nhiên rộng mênh mang, con người như đang trôi chảy theo nhịp sống, cũng tấp nập và cũng vô cùng dịu dàng, trước một khung cảnh thiên nhiên, tươi tắn và cũng vô cùng thơ mộng Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng. Hình ảnh của con sóng đang gợn, đó là dòng tâm trạng của con người cũng đang chảy trôi, lăn tăn trên dòng nước, ở đó con người như đang hòa nhập và tạo nên nhiều khung cảnh trữ tình, dòng nước trôi miên man, con người cũng đang hòa nhập trên dòng sông, với những cảm xúc buồn man mác, con người ở đây cũng phải hòa mình vào dòng cảm xúc đang chảy của thiên nhiên trữ tình. Hình ảnh con thuyền tự trôi theo dòng nước, cứ xuôi mái, ở đây dường như không có người lái đò, nó tự trôi chảy, ở đây thiên nhiên cũng giống như tâm trạng của con người, cũng đang lững lờ trôi mà không có một bờ vô định nào, cuộc sống cũng đang chảy trôi theo những dòng cảm xúc hỗn dung nhiều cảm giác của con người. Ở đây trong không gian mênh mông rộng lớn đó, dường như sóng, và dòng nước đang làm bạn với con thuyền, nhưng khi thuyền mà về thì dòng nước cũng mang những nỗi buồn man mác, cách xây dựng biện pháp nhân hóa ở đây được thể hiện một cách có ý nghĩa nhất. Tác giả thổi hồn mình vào sự vật, làm cho nó trở nên có hồn hơn, con người cũng đang chảy trôi theo dòng nước, nỗi buồn của nước giống như nỗi buồn của con thuyền, ở đó con người đang phải lênh đênh, vô định, trước một khoảng không gian mênh mông. Con thuyền ở đây nó được thể hiện trong cảm xúc của con người, nó vô định, dạt dào và mang nhiều cảm giác mới mẻ, ở đó con người được sống những giây phút hạnh phúc nhất khi đang hòa mình vào thiên nhiên mặc dù con người đang phải trải qua những giây phút trống vắng trong tâm hồn. Ở đây biện pháp đảo ngữ cũng được sử dụng hết sức tinh tế, tác giả không viết là củi khô mà lại viết “củi một cành khô”, ở đây biện pháp đảo ngữ làm tăng thêm độ mênh mang, dào dạt trong cảm xúc của con người, ở đó con người đang dạt dào nhiều cảm xúc, hình ảnh lạc mấy dòng cũng thể hiện được dòng tâm trạng hiu hắt, nó làm lay động trái tim của người đọc bởi tính chất và mức độ thể hiện ở đó, cách thể hiện đầy tinh tế, nó làm gia tăng thêm cảm xúc và giá trị trong tác phẩm. Mỗi lời thơ đều được cảm nhận bằng những tính chất và mức độ khác nhau, chính vì vậy cuộc sống của con người cũng đang rơi vào những bờ lạc lõng, tâm trạng của thi sĩ cũng mang nhiều cảm xúc bởi nó có hồn và chứa chan nhiều giá trị sống “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, chiều lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu” Hình ảnh dài và rộng của dòng sông cũng được thể hiện một cách sâu sắc và có nhiều ý nghĩa nhất, dòng sông mênh mang chứa chan bao nhiêu cảm xúc của thi sĩ, trước con mắt của tác giả dòng sông đang trôi dạt theo nhiều cảm xúc và nó cũng trở nên trữ tình “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh của bèo dạt thể hiện được sự trôi nổi, không có bờ đến, và rồi sự mênh mông đó cũng thể hiện cảm xúc của con người đang hòa mình vào dòng tâm trạng và cảm xúc của con người, bờ xanh thể hiện một cảnh vật thiên nhiên tươi tắn, nó cũng thể hiện một dòng tâm trạng xa xôi và hiu hắt của con người “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Hình ảnh của núi bạc, của những cánh chim nghiêng đang sà vào bóng chiều xa, với những hình ảnh đó tác giả đang có cảm xúc với hình ảnh của nhớ dòng sông và nhớ quê hương, hình ảnh đó gợi lại cho con người nhiều cảm xúc. Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang đã đọng lại trong lòng người đọc một khung cảnh thiên nhiên và dòng sông rộng mênh mang, trong đó tâm hồn nhà thơ cũng đang dạt dào một nỗi nhớ quê hương bất tận. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Kết Bài Tràng Giang 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Ngắn Gọn Súc Tích – Mẫu 4 Tham khảo ngay bài phân tích thơ Tràng giang dưới đây để cảm nhận được nổi nhớ nhà của tác giả Huy cận nhé! Huy Cận là nhà thơ của thiên nhiên nhiên, đất nước, con người. Ông thường viết những bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động, của sự say mê cống hiến cho đời. Ta thấy được sự khỏe khoắn, tươi vui trong các tác phẩm của ông như Đoàn thuyền đánh cá, Bài ca cuộc đời…. Nhưng Huy Cận cũng có những lúc u sầu, buồn bã trước trần thế – điều hiếm khi ta thấy trong các sáng tác của nhà thơ này. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và sự cô đơn, buồn tủi được nhà thơ thể hiện trong bài thơ Tràng giang, được sáng tác năm 1939. Trước cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, nhà thơ thấy mình nhỏ bé, cô đơn, từ đó khơi dậy nỗi nhớ quê hương tha thiết. Ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Các từ láy “song song”, “điệp điệp” gợi ra một không gian sông nước mênh mang, bao la và rộng lớn. Trong không gian ảm đạm đó chỉ có duy nhất một hình bóng con thuyền, nhưng con thuyền ấy cũng lênh đênh, vô định, để mặc cho dòng nước đẩy trôi đi cũng giống như tâm trạng của nhà thơ lúc này. Những sự vật cũng chuyển động hết sức lặng lẽ, như đang u sầu, u uất trước cuộc đời. Hình ảnh “Thuyền về nước lại” nghe sao mà xót xa quá! Thuyền và nước vốn là hai sự vật song hành cùng nhau, thuyền nhờ có nước mới trôi đi, nước thì có thuyền mà sóng sánh, ấy vậy nhưng ở đây Huy Cận lại thể hiện sự chia cắt giữa thuyền và nước, sự chia cắt này gợi một nỗi sầu “trăm ngả”…. Không có gì có thể buồn hơn. Câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất là hình ảnh thơ độc đáo với hai vế “Củi một cành khô – lạc mấy dòng”. Lượng từ “một” diễn tả sự ít ỏi, chỉ độc một cành củi khô, cũng giống như chỉ có duy nhất một con thuyền. Tâm trạng buồn bã của tác giả được đẩy đến đỉnh điểm, khi xung quanh các sự vật cũng đều đơn côi, lẻ bóng không biết đi về đâu. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vừa cho thấy cái vô hồn của cảnh vật, vừa thể hiện lên sự có hồn, là tâm trạng buồn bã của thi nhân. Khổ thơ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ ràng hơn “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.” Nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những hình ảnh của thiên nhiên thì đến những câu thơ này đã xuất hiện hình bóng của con người. Nhưng con người cũng xuất hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng vãn chợ chiều ở phía xa xa. Một ngôi làng gần đấy đang bắt đầu dọn dẹp cho phiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm biệt, âm thanh vãn chợ văng vẳng đâu đấy. Những tưởng sự xuất hiện của con người sẽ làm cho bức tranh bớt ảm đạm hơn nhưng không, chúng lại khiến cho tác giả cảm nhận sâu sắc được tình cảnh của mình, chợ đã không còn tươi vui, tấp nập như buổi sớm mai, cũng như tâm trạng không còn vui vẻ, hào hứng của nhà thơ Huy Cận. Hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc đáo “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Hình ảnh đối lập “Nắng xuống – trời lên” thể hiện sự buông thả của cuộc đời. Ánh nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buông xuống. Cụm từ “sâu chót vót” là hình ảnh cực kì độc đáo, bởi lẽ “chót vót” vốn là một từ để miêu tả độ cao nhưng ở đây lại được dùng để miêu tả độ sâu, cùng với câu thơ sau tạo nên một bức tranh vô cùng rộng lớn mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả. Khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Nhà thơ tiếp tục sử dụng hình ảnh “bèo” trôi, cũng như con thuyền và cành củi khô ở đoạn đầu, là những số phận lênh đênh, trôi nổi không biết dạt về đâu. Khung cảnh bên bến sông trơ trọi, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãi rộng lớn bao la. Cả một bức tranh hiện thực đượm buồn mà nỗi cô đơn của tác giả như đang muốn thoát ra khỏi đó, để có một cuộc sống tươi đẹp hơn, tươi vui hơn. Khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Cách miêu tả thiên nhiên của Huy Cận như gợi ra trước mắt người đọc một bức tranh với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp đùn ra trên những ngọn núi cao tít tắp, cùng với đó là hình ảnh cánh chim nhỏ nghiêng trong bóng chiều bay về tổ để đoạn tụ với gia đình. Có lẽ khi chứng kiến những hình ảnh thiên nhiên ở các câu thơ trước, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn thấm sâu trong lòng mình nhưng chỉ đến khi nhìn thấy hình ảnh cánh chim, Huy Cận mới bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Ta thấy được tình cảm chân thành, gắn bó của nhà thơ với gia đình, với quê hương, đất nước. Dù có đang ở nơi đâu thì trong lòng của một người con xa quê vẫn luôn khắc khoải nhớ về những bóng hình của những người thân thương… Tràng là dài, giang là sông, tràng giang là sông dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. Huy Cận đã lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh vật trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ nhà tha thiết. Đọc bài thơ, ta thấy thêm được một khía cạnh khác trong thơ Huy Cận, rằng ông không chỉ viết hay, viết sâu sắc về sự hồ hởi, tươi vui mà còn viết rất thấm thía, cảm động khi nói về nỗi buồn. Đây quả là một nhà thơ tài ba đáng ngưỡng mộ! Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Ngắn Nhất – Mẫu 5 Bài văn phân tích bài thơ Tràng giang ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh dễ dàng và nhanh chóng ôn tập. “Tràng giang” để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ của tác phẩm. Nhan đề bài thơ là một từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính, với nghĩa là sông dài. Từ nhan đề và câu thơ đề từ của bài thơ, khổ thơ thứ nhất đã mở ra một không gian sông nước sông nước rộng lớn. Câu thơ mở đầu khổ thơ thứ nhất đã mở ra một hình ảnh sông nước mênh mang. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Dường như, dòng sông “tràng giang” đã dài nay lại như trải dài ra hơn với từng đợt sóng “điệp điệp” cứ nối đuôi nhau vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, không dứt. Hình ảnh đối lập giữa không gian sông nước mênh mông với hình ảnh con thuyền nhỏ bé càng gợi lên trong chúng ta sự cô đơn, le loi. Đặc biệt, khổ thơ thứ nhất còn để lại ám ảnh sâu sắc trong lòng người đọc bởi hai câu thơ cuối của khổ thơ. Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Trong khổ thơ thứ nhất, nếu ví dòng tràng giang là dòng đời vô tận thì hình ảnh con thuyền, cành củi khô chính là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, vô định. Đồng thời, khổ thơ cũng gợi lên nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Nắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu Trong hai câu thơ, tác giả dùng “sâu chót vót” thay vì “cao chót vót” bởi lẽ chữ “sâu” không chỉ tả cảnh mà còn tả tình, nó không chỉ gợi lên một khoảng không gian rộng lớn, thẳm thẳm mà còn gợi lên cả nỗi buồn, sự cô đơn đến tột cùng của lòng người trước cái mênh mông, hoang vắng của cảnh vật. Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” một lần nữa gợi lên trong người đọc hình ảnh về kiếp người, cõi nhân sinh trôi nổi, không biết rồi sẽ đi đâu, về đâu. Thêm vào đó, khổ thơ với việc sử dụng nghệ thuật phủ định lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh sự hiu quạnh, thiếu sự sống của cảnh vật. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Dường như chỉ với một câu thơ thôi nhưng tác giả đã tạo nên một bức tranh thật đẹp. Và để rồi, trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh cánh chim xuất hiện như ánh lên một tia ấm áp cho cảnh vật song nó vẫn không làm vơi đi nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn của nhà thơ. Tóm lại, “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và màu sắc hiện đại cùng những hình ảnh thơ độc đáo đã gợi lên trong chúng ta nỗi buồn, sự cô đơn của một cái tôi trước khung cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn và đặc biệt đó chính là tấm lòng tha thiết với quê hương, với đất nước. Giới thiệu tuyển tập 🌟 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Bài Văn Phân Tích Tràng Giang Chi Tiết – Mẫu 6 Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích Tràng giang chi tiết để các em học sinh cùng tham khảo Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình. Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng “Nắng xuống trời lên, sâu chót vótSông dài trời rộng, bến cô liêu” Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian, thấm sâu trong từng hơi thở. Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cần gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại. Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”. Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt. Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào “Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết “Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu”. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,..Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời. Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌼 Văn Mẫu Tuyển Chọn Phân Tích Chi Tiết Bài Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 7 Đón đọc bài văn phân tích chi tiết bài Tràng giang đặc sắc dưới đây để trau dồi những ý văn hay. Hoài Thanh đã có một nhận định về các nhà thơ mới năm 1930 “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét độc đáo riêng của mình. Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ đặc sắc và thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ. Huy Cận là một trong số những nhà thơ mới trong giai đoạn 1930- 1945. Nếu như Xuân Diệu say đắm trong trường tình thì Huy Cận lại chìm đắm trong nỗi sầu của nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ tiêu biểu và đặc sắc nhất được trích trong tập “Lửa thiêng” 1940. Huy Cận sáng tác bài thơ khi đang đứng ở bờ Nam bến Chèm của sông Hồng, nhìn ngắm cảnh thiên nhiên sông nước suy ngẫm về cuộc đời mình mà “tức cảnh sinh tình”. Bài thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên cũng như nỗi buồn nhân thế của tác giả. Ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến với một nét đẹp cổ điển mà ít ai có, chỉ khi đến với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận được. Đó là cách đặt tên nhan đề bài thơ, “Tràng Giang” là sông lớn, sông dài. Nhưng tại sao ở đây tác giả không dùng “Trường Giang” mà lại là “Tràng Giang”? “Tràng Giang” điệp vần “ang” tạo nên một âm thanh vang xa, đồng thời cũng thể hiện một nỗi buồn trải dài xuyên suốt cả bài thơ. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” lời đề từ cũng đã mở rộng ra trước mắt chúng ta một không gian rộng lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “bâng khuâng”. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng. Đến với khổ thơ thứ nhất, chúng ta bắt gặp được những hình ảnh mang tính cổ điển, chỉ có ở trong thơ cổ mới có “trường giang”, “con thuyền”, “củi một cành khô”…Mở ra cho chúng ta một không gian rộng lớn, “điệp điệp” gợi ra không gian theo chiều rộng, “song song” gợi mở không gian theo chiều dài. Một không gian bao la rộng lớn, nhưng cũng tĩnh lặng lạ thường. Bao trùm lên cảnh vật là một nỗi buồn “điệp điệp” một nỗi buồn trải dài khiến hình ảnh con thuyền cũng tĩnh lặng giữa dòng nước “song song”. “Thuyền” và “nước” là hai hình ảnh quen thuộc trong thơ, ngoài đời thực chúng cũng là hai sự vật luôn đi liền với nhau không thể rời nhau, Vậy mà ở đây tác giả lại cho ta thấy một sự chia ly giữa thuyền và nước “thuyền về” còn “nước lại” gọi sự chia ly, sự xa cách hững hờ. Tâm trạng của thi nhân được bộc lộ rõ nét nhất qua câu thơ cuối cùng “Củi một cành khô lạc mấy dòng” . “Củi” là một hình ảnh nhỏ bé, mong manh vậy mà lại lênh đênh vô định giữa một không gian rộng lớn của sông nước không biết sẽ trôi dạt về đâu. “Củi” đã bé nay lại càng nhỏ bé hơn khi kết hợp với số từ “một” tác giả như muốn nhấn mạnh thân phận bé nhỏ của chính bản thân mình trôi nổi mênh mông giữa dòng đời. Một nỗi buồn cô đơn về thời thế. Nỗi buồn của thi nhân càng được tăng thêm, càng được đẩy đến đỉnh điểm khi đến với khổ thơ thứ hai “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng bến cô liêu”. Bức tranh thiên nhiên sông nước ấy có phần tăng thêm sức sống khi có thêm những “cồn nhỏ”. Những gò đất nổi lên giữa lòng sông ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa thớt gợi lên một sự đơn sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cô quạnh khi những làn gió thổi qua. Những cơn gió không ồn ào mà chỉ “đìu hiu” làm cho nỗi buồn của thi nhân như được nhân lên khi đứng trước một không gian tiêu điều. Chợt có đâu đây có tiếng “chợ chiều”. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc sống nơi đây có ấm no sầm uất hay không. “Đâu” gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ không biết có phải là có âm thanh đó hay không, tác giả cũng chỉ nghe thấy cảm nhận thấy chứ không được nhìn thấy. Âm thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo, vừa thực mà vừa hư. Tưởng chừng như âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui nhưng chính nó lại khiến tác giả thêm cô đơn, lẻ lõi trên chính mảnh đất quê hương mình. “Nắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu” Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận. Không gian được mở ra theo nhiều chiều vừa cao, vừa sâu, vừa rộng…”Nắng xuống” và “trời lên” tạo nên một sự ngăn cách, chia li theo hai chiều đối nghịch “lên” và “xuống”. Đây là cảm nhận mà chỉ khi đến với con người hiện đại chúng ta mới thấy mới cảm nhận được. Không gian không chỉ được mở rộng theo chiều rộng, chiều cao mà còn theo chiều sâu. Nắng càng xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn ngả bóng xuống lòng sông sâu “chót vót”. Tác giả đã sử dụng từ rất đặc biệt, không phải cao “chót vót” mà là “sâu chót vót” vừa tả được độ cao cũng vừa cảm nhận được độ cao ấy. Con người trở nên bó nhỏ cô đơn trước vũ trụ bao la vô tận… “Sông dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu thì con người càng bé nhỏ bấy nhiêu với hình ảnh “bến cô liêu”- bến đã nhỏ lại còn hiu quạnh. Con người cảm thấy bé nhỏ hơn bao giờ hết. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh những cánh bèo gợi sự tan tác chia ly, những cánh bèo trôi “hàng nối hàng” vô định không biết trôi dạt về nơi đâu. Đây cũng chính là số phận của những kiếp người nhỏ bé, cô đơn với một cuộc sống bấp bênh. Giữa không gian “mênh mông” rộng lớn, thi nhân cố kiếm tìm một niềm vui nhưng “không một chuyến đò ngang” không có hình bóng cuộc sống của con người. “Không cầu gợi chút niềm thân mật” không có được sự chia sẻ của tình người, tình đời. Điệp từ “không” như càng làm tăng thêm sự buồn bã cô đơn, chỉ có “bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ có một mình thi nhân với thiên nhiên quạnh lần nữa không gian lại được đẩy đến sự tận cùng của sự hoang vắng, cô liêu. Thi nhân mở rộng thêm tầm nhìn của mình, không còn không gian ở tầm thấp nữa mà được nhìn với tầm cao, tầm xa “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Chỉ với bốn câu thơ cuối, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh đậm chất cổ điển với hình ảnh phía xa có hòn núi, những đám mây bay là đà “lớp lớp”. Không phải là một đàn chim mà chỉ duy nhất có một cánh chim lạc đàn nhỏ bé đơn côi “nghiêng cánh nhỏ” dưới “bóng chiều sa”. Cánh chim ấy cô đơn, lạc lõng, nỗi buồn như càng đè nặng lên đôi cánh giữa bầu trời rộng thênh thanh. Nhiên nhiên ở khổ thơ được vẽ ra là một thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ không giống với thiên nhiên ở các khổ trước hiu quạnh, vắng lặng. “Lòng quê dợn dợn vờn con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” “Lòng quê” hay chính là tình yêu thiên nhiên đất nước mà nhà thơ muốn gửi gắm, nó cuộn trào lên “dợn dợn” như sóng nước mênh mông. Tình yêu quê hương bất tận, choáng ngợp như chính con sông “Trường Giang” vậy. “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhớ”, những người con xa quê hương chỉ cần một hình ảnh nhỏ thôi cũng làm họ gợi nhớ đến quê hương mình. Bóng chiều đã ngả đây là lúc con người ta nhiều tâm trạng nhiều cảm xúc nhất, nếu như Thôi Hiệu nhìn thấy khói hoàng hôn thì nhớ nhà “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” thì đến với Huy Cận ông không cần nhìn thấy “khói hoàng hôn” nhưng vẫn nhớ tới nhà da diết. Đây là sự sáng tạo độc đáo của Huy Cận trong thơ mới. Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh hùng vĩ, với cách nhìn độc đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao trùm không gian ấy là một nỗi buồn. Đó không chỉ là nỗi buồn cô đơn lẻ loi của chính tác giả mà còn là nỗi buồn của một thế hệ khi phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà Huy Cận tạo nên với những hình ảnh gần gũi như sông nước bến thuyền vừa mang một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó đã tô đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận. Ngoài phân tích Tràng giang, giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Đây Thôn Vĩ Dạ 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất Phân Tích Chi Tiết Tràng Giang Chọn Lọc – Mẫu 8 Bài văn phân tích chi tiết Tràng giang chọn lọc dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. “Tràng giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ chính là một cái tôi cô đơn, lạc lõng và đầy nỗi ưu phiền. Nhan đề và lời đề tự đã thâu tóm cảm xúc cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ. Từ Hán Việt “tràng giang” với vần “ang” tạo sự lan tỏa đến mọi khía cạnh của ko gian. Bài thơ mở đầu bằng cảnh sông nước mênh mông vô tận “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song.” Từ láy “điệp điệp” gợi cảm xúc buồn vô tận của lòng người, “song song” gợi ta liên tưởng đến những đợt sóng trải dài. Nỗi buồn của cái tôi trữ tình cứ thế trải dài theo sông nước miên man, trùng trùng lớp lớp nối tiếp nhau vô tận. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Con thuyền cùng dòng nước vốn thương bên nhau mà nay cũng có sự xa cách Thuyền đi để nước ở lại. Cành củi nhỏ không biết đi đâu về đâu để rồi lại trôi nổi đến “lạc”. Cảnh sông nước mênh mông đã gợi tâm trạng cô đơn lạc lõng của một cái tôi trữ tình giàu nhạy cảm.. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn. Đã bắt đầu xuất hiện con người trong buổi chợ chiều nhưng đó cũng chỉ là một sự nghi vấn của nhà thơ. Từ đằng xa, tiếng chợ chiều vẳng lại nhưng cũng sắp “vãn”. Không gian vẫn mang một nỗi buồn u uất. Đến khổ ba, ấn tượng về cảnh tượng chia li lại một lần nữa được nhắc lại “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Cái tôi trữ tình càng trở nên lạc lõng giữa dòng sông không một chuyến đò, xung quanh chỉ là những cánh bèo trôi dạt. Vừa có ý tả cảnh, nhưng đồng thời nhà thơ cũng như đang ví mình giống như cánh bèo kia trôi nổi, vô định. Cảnh vật đã mang chút sắc màu tươi tốt “bờ xanh”, “bãi vàng” nhưng cũng vẫn còn hoang sơ. Nỗi mong mỏi lớn nhất của Huy Cận lúc này đây là được giao cảm, chuyện trò nhưng không một ai “gợi chút niềm thân mật”. Cái tôi trữ tình trở nên cô đơn, lạc lõng. Từ đó, thi sĩ bày tỏ nỗi niềm thầm kín “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,” Giữa khung cảnh thiên nhiên hung vĩ, cánh chim bay giữa trời trong buổi chiều tà như bị nuốt chửng bởi không gian bao la đó. Dường nhưu không gian càng rộng lớn lại càng khiến ông cảm thấy rợn ngợp bấy nhiêu. “Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Khát khao lớn nhất của cái tôi trữ tình giờ mới được bộc lộ đó là niềm mong ước, khát khao trở về với quê hương. Bài thơ lúc này bỗng trở nên thấm đượm tình yêu đất nước. Mang chất liệu cổ điển đến với thơ mới, Huy Cận đã đem đến cho người đọc một cảm giác vừa lạ vừa thân thuộc. Khác với cái tôi trữ tình của Xuân Diệu, cái tôi trữ tình của Huy Cận chất chứa những nỗi buồn, nhớ nhung da diết về quê hương đất nước. Nó cho tháy một tình yêu quê hương âm ỉ trong trái tim của người thi sĩ tài năng này. Xem nhiều hơn 🌻 Sơ Đồ Tư Duy Đây Thôn Vĩ Dạ 🌻 13 Mẫu Hay Tràng Giang Phân Tích Đầy Đủ Nhất – Mẫu 9 Tài liệu văn Tràng giang phân tích đầy đủ nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ…. Và chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả. Mang trong mình cả cái tài, cái tâm lẫn cái tầm, Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị ường thi. Nhà thơ Xuân Diệu có lần từng nhận xét “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình”. Và “Tràng Giang” đã thể hiện sâu sắc điều đó. “Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút in trong tập “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buổi chiều thu 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm dòng sông Hồng mênh mông, lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ đứng trước cảnh “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Có thể nói nhan đề của một bài thơ chính là cửa ngõ, là điểm xuất phát để người đọc có thể lần mò theo đó khám phá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và bài thơ “Tràng giang” cũng vậy, ý nghĩ, nỗi niềm thầm kín được gửi trọn trong nhan đề vẻn vẹn hai từ “Tràng giang”. “Tràng giang” hay còn gọi là “trường giang” là một từ hán việt ý chỉ con sông dài. Nhưng tác giả lại lấy tên “Tràng giang” chứ không phải “Trường giang”. Bởi vốn dĩ “Trường giang” chỉ có ý nghĩa chỉ con sông dài đơn thuần như thế; nhưng ngược lại “Tràng giang” vừa nói con sông dài mênh mông, vừa nói lên tâm trạng, nỗi niềm của chính tác giả. Vần “ang” kéo dài ra như nỗi niềm của Huy Cận chưa bao giờ vơi khi đứng trước con sông rộng lớn mênh mông này. Bước vào thế giới của Tràng Giang, ta như lạc vào một miền sông dài trời rộng đầy cuốn hút Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về, nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng. Câu thơ đầu mở ra với sóng. Không ồn ào, mạnh mẽ mà là “sóng gợn”. Động từ “gợn” vừa miêu tả tư thế, vừa miêu tả tâm thế. Bởi lẽ, “gợn” trước hết gợi đến những chuyển động vô cùng nhỏ, chậm rãi của sóng. Tuy là một động từ nhưng thực chất “gợn” gợi ra cái không khi tĩnh lặng, im ắng của thiên nhiên sông nước. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh của nhà thơ sao thật tài tình. Chi tiết hé mở hoàn cảnh thiên nhiên, nhưng cũng mở ra không gian tâm trạng của nhà thơ. Ta thấy ở đó tâm thế của một con người mang trong mình sự sâu lắng, mà cũng đượm buồn. Sóng không chỉ là sóng sông mà còn là sóng lòng, sóng tâm đang nhẹ nhàng từng gợn nhỏ, thấm cái “buồn điệp điệp” toát ra từ cảnh và dội vào lòng thi nhân. Từ láy điệp điệp” không chỉ vẽ lên những đợt sóng gợn liên hồi của sông nước mà còn là dòng sông tâm trạng của nhà thơ, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn vào nhau. Đặc biệt hơn, ngay ở câu đầu, tác giả đã nhắc lại nhan đề bài thơ không phải không có dụng ý. “Tràng Giang” là con sông vừa dài vừa rộng, gợi ra không gian rộng lớn, choáng ngợp. Đặt giữa cái nền ấy là một con người lẻ bóng, nhỏ nhoi đang đưa cặp mắt buồn theo mấy con sóng lăn tăn tít tắp đến tận chân trời. Điều này càng tô đậm thêm nỗi lòng của Huy Cận, một thi sĩ sẵn sàng buồn mọi lúc mọi nơi. Nỗi buồn của người lữ thứ dừng chân trên quán chật đèo cao, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng xuống, khi chiều lên, thậm chí là buồn khi không còn thấy những dấu chân trên đường. Nếu như câu thơ đầu chập chùng sóng vỗ thì đến những câu tiếp theo đã thấp thoáng bóng dáng của con thuyền. “Con thuyền xuôi mái nước song song” hay cũng chính là con thuyền trôi vô định, trôi song song dòng nước, cho con sóng đưa đi. Hình ảnh đó gợi cho tôi một tâm thế buông xuôi, phó mặc cho dòng đời, sự đời đưa đẩy của thi nhân. Cùng với nỗi “buồn điệp điệp” trên, câu thơ càng làm sáng tầng ý nghĩa sâu sắc này. Có thể nói, câu thơ thứ ba là một sáng tạo tài tình của tác giả. Theo lẽ thường, nước đẩy, thuyền trôi. Thuyền trôi theo dòng nước. Nói cách khác, thuyền và nước không bao giờ tách rời nhau, ngược chiều nhau. Nhưng với Huy Cận thì “thuyền về, nước lại”. Hai thế đối lập gợi ra cái vô lí trong logic nhưng thực chất, xét ở bề sâu, bề sâu, bề xa, ta càng hiểu được hơn nỗi lòng của người lữ khách miền sông nước. Phải chăng đó là mặc cảm chia lìa trong cảm nhận của Huy Cận khi đứng trước sông dài trời rộng? Cũng như Hàn Mặc Tử khi còn nằm trên giường bệnh, nhìn ra xa mà thấy “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Đó là nỗi buồn đầy ám ảnh trong mặc cảm chia li. Thế nên Huy Cận “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu to lớn mà không gì có thể bù đắp được. Toàn bộ nỗi lòng của nhà thơ cuối cùng được kết đọng cả trong hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Thơ ca từ cổ chí kim, nỗi buồn được cắt nghĩa dưới vô vàn hình hài góc cạnh khác nhau. Có cái nỗi buồn khi thấy “cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi thu mênh mông” Bích Khê, có cái nỗi buồn trước “rặng liễu đìu hiu” Xuân Diệu, lại có cái buồn khi nghe thấy tiếng gà gáy não nùng trong thơ Lưu Trọng Lư. Nhưng có lẽ, buồn trước một cành củi khô thì chưa bao giờ xuất hiện trong kho tàng văn học Việt Nam. Củi chỉ những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh, cũng trôi lênh đênh vô định trong dòng chảy của cuộc đời. Vậy nên, “củi một cành khô lạc mấy dòng” là điều không thể tránh khỏi. Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ của khổ đầu Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu. Điều đầu tiên gây ấn tượng trong lòng độc giả là phép đảo ngữ. Từ láy “lơ thơ” được đặt lên đầu câu, nối tiếp sau đó là “cồn nhỏ gió đìu hiu”. Một câu mà xuất hiện liên tiếp ba tính từ chỉ sự xơ xác, nhỏ bé, lẻ loi của tạo vật. Đìu hiu, hay cũng chính là cái buồn không ai chia sẻ đang dậy sóng trong tác giả. Thay vì là bức tranh thiên nhiên như khổ một, khổ thơ thứ hai lại tái hiện cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà tiêu biểu nhất là hình ảnh chợ chiều thời điểm vãn. Chợ vốn dĩ miêu tả cảm giác đông đúc, ấm no, tràn đầy sức sống, đúng như Nguyễn Trãi từng miêu tả “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”. Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía…” Thạch Lam. Chi tiết gợi ra cái hoang tàn, xơ xác, hiu quạnh, heo hút của làng quê miền sông nước, cũng là gợi mở cái buồn vô hạn trong lòng thi nhân. Hai câu cuối là một sáng tạo nghệ thuật tiêu biểu cho cái hồn thơ đậm phong vị Đường thi của Huy Cận. Câu trước, câu sau đối nhau, niêm luật sử dụng chặt chẽ cùng các động từ, tính từ đối nhau từng cặp lên – xuống, dài – rộng như mở thêm cho không gian. Sông nước đã rợn ngợp nay càng rộng lớn hơn nhiều lần. Sông nước mở ra theo chiều cao, chiều sâu, chiều dài, chiều rộng. Không gian như đang giãn nở từ từ theo mọi chiều kích. Đọc câu thơ ta thấy như mọi vật đang chuyển động r xa hơn, cao hơn, rộng hơn, sâu hơn. Và ở chính giữa bức tranh ấy, ta thấy tâm điểm vẫn là bóng dáng nhỏ bé tưởng chừng đơn độc, hiu quạnh giữa vũ trụ. Nỗi buồn, nỗi sầu của thi nhân vì thế mà nhân lên gấp bội lần. Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt nước mênh mông. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Cảnh mênh mang, buồn bã, trống vắng của Tràng Giang được nhân lên mấy lần phủ định. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ, là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi lên không khí tấp nập, thân tình, gợi nhớ quê hương “Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta – Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo – Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo – Nhịp cầu nối những bờ vui.” Nhịp cầu nối những bờ vui. Nhưng ở đây, không một chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài về phía chân trời như hai thế giới cô đơn, xa lạ, không bao giờ gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh Tràng Giang nay chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Bức tranh thật đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn đến nao lòng. Trên mặt nước ấy xuất hiện hình ảnh cánh bèo lẻ loi, đơn độc, gợi đến thân phận “cánh bèo mặt nước” Nguyễn Du, sự tan tác, chia lìa, phiêu bạt Phận bèo bao quản nước saLênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênhNguyễn Du Câu thơ cho ta thấy Bèo dạt hoa trôi trên dòng Tràng Giang hay cũng chính là kiếp trôi nổi của con người trong dòng thời gian. Cả bốn câu, mỗi câu một nỗi buồn riêng, kéo nhau như sóng gợn trong lòng Huy Cận. Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này. Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian Lòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. “Lòng quê” hay cũng chính là hồn quê, tình quê trong lòng thi nhân, sự hướng tâm chứ không chỉ đơn thuần là tấm lòng chất phác, quê mùa. Hai từ “dờn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? Hai từ “dờn dợn “còn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lươn của sóng biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiêu nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiểu lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn” mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả đứng trước sông nước rợn ngợp. Câu thơ cuối cùng kết lại toàn bài. Đó chính là điểm nhấn sâu sắc nhất, đóng lại tư tưởng, tình cảm của bài thơ. “Không khói hoàng hôn” nghĩa là không một yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp đến thi nhân nhưng tại sao nhà thơ vẫn nhớ nhà? Đặt trong thơ ca từ cổ chí kim, Thôi Hiệu đã từng bày tỏ nỗi hoài hương của mình thế này “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Hoàng Hạc Lâu. Trước cảnh mà dâng trào nên tình nhớ. Còn ở Huy Cận, ta lại thấy không một chút gợi nhớ nhưng tấm lòng nhà thơ vẫn hướng về quê cha đất tổ. Đủ để thấy cái tình quê ấy nó đậm đà biết nhường nào. Đặt trong hoàn cảnh ra đời bài thơ, Huy Cận đứng trước dòng sông quê hương mà vẫn nhớ quê hương, thâm trầm nhưng sâu sắc. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy, mấy ai sánh kịp? Dưới hình thức một bài thơ đậm phong vị Đường thi, kết cấu mạch lạc và cái tài sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà phê bình Phan Cự Đệ có lần từng nhận xét “Các nhà lãng mạn gửi gắm vào trong thơ một tấm lòng tha thiết yêu thiên nhiên đất nước và một sự nâng niu đối với tiếng Việt, lúc bấy giờ bị xem như tiếng mẹ ghẻ, tiếng con đòi… Tiếng nói trong Thơ mới là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong Thơ mới chính là đất nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương “Quê hương” của Tế Hanh, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Đà Lạt đêm sương” của Quách Tấn, “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Chiều xuân” của Anh Thơ…. Cho nên ta có thể dễ dàng thống nhất với Xuân Diệu khi anh viết “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”. Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. “Tràng Giang” của Huy Cận là một bài như thế. Cùng với tấm lòng chan chứa tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ, thi phẩm sẽ còn sống mãi với chúng ta cho đến tận muôn đời. Ngoài phân tích Tràng giang, tại còn có 🌺 Phân Tích Đây Thôn Vĩ Dạ Của Hàn Mặc Tử 🌺 10 Bài Hay Phân Tích Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 10 Tràng giang là một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Huy Cận, cùng phân tích bài thơ để cảm nhận cái hay độc đáo ngay nhé! Tràng Giang là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện sắc nét bút pháp nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Và Tràng Giang “Tràng giang đã nối tiếp mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân đích thực. Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu tram ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này. Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bộ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô đinh. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiêu không như long người mong ngóng Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thương nhớLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng Dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dung rất đắc điệu Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng them sầu, them buồn hơn. Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận. Đọc nhiều hơn 🌻 Cảm Nhận Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ 🌻 10 Bài Văn Mẫu Hay Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang Học Sinh Giỏi Điểm Cao – Mẫu 11 Để viết phân tích bài thơ Tràng giang học sinh giỏi điểm cao cần tham khảo những tư liệu văn hay. Đón đọc bài văn mẫu phân tích Tràng giang học sinh giỏi được chia sẻ dưới đây Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận. Bài thơ được in trong tập thơ Lửa thiêng viết vào năm 1940, tác phẩm bộc lộ tâm trạng u buồn của con người trước cảnh vật rộng lớn bao la, khắc hoạ sự cô đơn buồn thương đến tuyệt đối. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song song.” Từng cơn sóng mệt mỏi gợn lăn tăn giữa dòng sông sâu rộng. Con thuyền nhỏ cô độc giữa dòng sông càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn, thuyền mặc trôi vô định xuôi theo dòng giang bao la. Sóng gợn “điệp điệp”, nước “song song”, cảnh vật tuy có sự vận động nhưng sao vẫn thấy tĩnh lặng lạ lùng. Dòng sông thì bao la vô tận, thiên nhiên vẫn tuyệt đẹp đấy thôi mà sao vẫn mang nỗi sầu buồn khó tả “Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Thuyền và nước gắn bó chặt chẽ và song hành cùng nhau “thuyền về”, “nước lại” – dường như hai vật thể lại đang trong thế đối nghịch nhau gợi sự chia lìa, xa cách, cũng như nỗi sầu của người thi nhân vậy. Càng cố tìm đến thiên nhiên để thoát ly nỗi sầu muộn trước nhân thế, trước thực tại đảo điên, thi nhân lại càng thấy mình cô độc, buồn thương, càng nhỏ bé trước vũ trụ vô tận. Những dòng nước cứ thế lặng lờ trôi, cành củi khô một mình lạc giữa mênh mang sóng nước. Dường như chẳng thể điều khiển được dòng nước mình đi, trôi dạt vô định giữa sông nước. Cảnh nhẹ nhàng, yên bình, đẹp nhưng đượm nỗi buồn lớn. Phải chăng cảnh cũng chất chứa tâm trạng hay chính lòng người buồn khiến cảnh cũng mang nỗi sầu tư, bởi vốn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nỗi lòng ấy lại càng sâu hơn, thê lương và cô đơn hơn, ngấm chìm vào từng cảnh vật “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Bãi cồn nhỏ nhoi, ít ỏi lại càng tô đậm thêm vẻ đìu hiu quạnh vắng của không gian. Nét cảnh vật có phần hoang sơ, tiêu điều, đơn độc. Tiếng chợ chiều xa vẳng lại chẳng rõ ràng. Có âm thanh, có hoạt động của con người đấy thôi, mà sao vẫn không vơi đi nỗi lặng lẽ của thời gian, của thiên nhiên và của lòng người. Chút âm thanh tiếng nói nơi chợ xa ấy chẳng đủ để xua tan đi cái buồn, cái tịch liêu rợn ngợp nơi đây. Càng hướng về thiên nhiên chốn quê nhà, càng mong mỏi chút gì đó sưởi ấm cõi hồn lạnh giá nhưng lại càng thấy cô đơn trên chính quê hương mình. Thiên nhiên đáp trả lại người thì nhân ấy một khung cảnh đầy buồn vắng, quạnh hiu “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Cánh bèo trôi dạt giữa dòng sông, không mục đích, không chốn đến nơi về, cứ thế xuôi theo dòng nước. Đưa mắt nhìn về bến đò, lại chỉ thấy hiu hắt, quanh vắng, chuyến đò ngang cũng chẳng thấy đâu, chẳng ai khiến ta thôi u sầu, chẳng ai cùng người thì sĩ san bớt nỗi sầu tư lúc này. Mong mỏi chút gì đấy sinh hoạt của con người cũng không thấy, bao quanh chỉ là những bờ xanh, bãi vàng tiếp nối nhau, nỗi buồn cứ thế cũng chất chồng lên nhau, thật xót xa, đau đớn biết nhường nào. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Nhà thơ có cái nhìn rất tinh tế khi miêu tả thiên nhiên đầy tráng lệ, hùng vĩ, vận động rất đẹp và thơ. Từng lớp mây vốn nhẹ nhàng trôi giờ tiếp nhau tạo thành những hình núi đẹp đẽ, lớn lao, từng áng mây mang nội lực, mang sức sống bất diệt, trường tồn. Cánh chim nhỏ nghiêng mình cũng là lúc bóng chiều dần buông xuống. Khi ấy, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, tình cảm sâu nặng với quê hương lại càng trỗi dậy, dạt dào đến khó tả “Lòng quê dờn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trong trái tim nhân vật trữ tình lúc này đong đầy biết bao tình cảm tốt đẹp chốn quê nhà. Dù buồn đấy, sầu đấy, nhưng nghĩ về quê hương lại càng xúc động, không nói nên lời. “Lòng quê dờn dợn” phải chăng là những đợt sóng lòng đang dâng trào mãnh liệt nơi tâm hồn thi nhân đã dồn nén bấy lâu, càng thương nhớ lại càng da diết khôn nguôi. Đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương khôn cùng. Bằng các hình ảnh giàu sức gợi, mang đậm phong vị Đường thi, với những hình ảnh cổ điển tiêu biểu, sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Huy Cận đã thể hiện được cái tôi độc đáo của mình trong thơ. Bài thơ bồi đắp, nuôi dưỡng cho tâm hồn mỗi người về tình yêu thiên nhiên tha thiết, lòng sâu nặng với quê hương dân tộc. Chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Chiều Tối Của Hồ Chí Minh 🌼 Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Bài Tràng Giang Nâng Cao – Mẫu 12 Tham khảo bài văn phân tích bài Tràng giang nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu. Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo. Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát. Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ. Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới. Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng không gian ra cả ba phía rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực điểm của con người trước không gian vũ trụ. Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cần gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa. Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào Lòng quê dờn dợn vợi con nướcKhông khói hoàng hôn cùng nhớ nhà. Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng. Tiếp theo phân tích Tràng giang, tặng bạn 💧 Nghị Luận Chiều Tối 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Đoạn Thơ Tràng Giang Ý Nghĩa – Mẫu 13 Bài văn phân tích đoạn thơ Tràng giang ý nghĩa dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý văn đặc sắc. Nhắc đến nhà thơ Huy Cận là nhắc đến một hồn thơ cổ điển với nỗi buồn mênh mang, sâu lắng. Bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ viết về cảnh sông nước nhưng sau bức tranh thiên nhiên rộng lớn, u tịch ấy là một tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của người thi sĩ. Đặc biệt, trong hai khổ thơ đầu tiên, Huy Cận không chỉ mở ra khung cảnh sông nước buồn vắng mà còn hé mở bức tranh tâm trạng thầm kín của bản thân “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Hình ảnh “sóng” trong câu đầu gợi ra những con sóng thực trên dòng giang trùng điệp đồng thời gợi cả những cơn sóng lòng đầy ưu tư trong lòng nhà thơ. Sóng trên dòng sông dài rộng kia cũng như lòng người vậy, mãi khắc khoải một nỗi buồn trùng điệp. Từ láy “điệp điệp” càng gợi tả nỗi buồn cứ lặp đi lặp lại của nhân vật trữ tình, từ ngày này qua tháng khác, nỗi buồn vừa rộng lại vừa dài, vừa sâu lại vừa xa. Con sông thoáng “gợn” đôi bờ mà lòng người khắc khoải, nỗi u sầu cứ giăng mắc mãi khôn nguôi. Giữa dòng trường giang rộng lớn ấy, hình ảnh “con thuyền xuôi mái” xuất hiện như một nét điểm xuyết cho bức tranh thơ. Con thuyền cứ lững lờ nhẹ trôi trong không gian mênh mông của sông nước càng làm nổi bật ấn tượng về sự đơn độc, lẻ loi, vô định. Thiên nhiên mênh mông quá, lòng sông dài rộng quá, biết tìm đâu bến đỗ cho con thuyền kia? Thuyền cứ thế thả mình xuôi theo những luồng nước song song, đi về mãi tận cuối chân trời. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với các từ ngữ vần bằng càng gợi thêm những nét mênh mang của vùng sông nước vừa như gần gũi lại vừa như xa vắng “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Thuyền và nước vốn song hành, gắn bó cùng nhau, nhưng trong cảm nhận của Huy Cận, thuyền và nước lại chẳng cùng chung một điểm đến “thuyền về nước lại”. Bằng biện pháp đối lập tương phản “thuyền về nước lại” đã đặc tả nỗi sầu xa cách, chia lìa. Cụm tính từ “sầu trăm ngả ” làm cho nỗi buồn như lan tỏa, giăng kín cả bức tranh thơ. Là thiên nhiên đang mang sầu trăm ngả” hay chính lòng người đượm niềm tiếng sầu bi? Sóng nước mênh mông, thuyền không bến đậu ngỡ là tột cùng của nỗi buồn, hình ảnh cành củi khô trơ trọi đang lạc lõng giữa dòng càng làm cho lòng người thêm bâng khuâng, khắc khoải. Nghệ thuật đảo ngữ được tác giả vận dụng đầy tinh tế nhằm nhấn mạnh cái lạc lõng của vật giữa vật, của người giữa người, của cuộc đời giữa vũ trụ bao la. Số từ “một” gợi lên sự đơn lẻ, cô độc, ít ỏi, danh từ “củi” kết hợp với tính từ “khô” càng gợi sự nhỏ bé, héo khô nhựa sống. Cành củi khô trôi dạt về đâu nơi vùng sóng nước. Không gian mang màu tâm trạng được tác giả vẽ nên bằng những nét vẽ giản dị của ngôn từ mà khiến lòng người không khỏi xót xa, u hoài. Nếu khổ thơ đầu thấp thoáng bóng dáng con người nhưng còn mờ nhạt, thì khổ thơ thứ hai xuất hiện dấu hiệu của sự sống con người nhưng còn xa vắng, quạnh hiu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.” Giữa cái lơ thơ, đìu hiu nơi cồn nhỏ, tiếng con người thoáng xao động nhưng chẳng thể nào xua tan, lấn át được cái tịch liêu của buổi hoàng hôn trên sông. Thứ âm thanh xa xôi, nhạt nhoà, không rõ rệt càng làm cho nhân vật trữ tình thêm khao khát được gặp gỡ, chuyện trò và đồng cảm. Vậy mà, niềm mong mỏi ấy càng ngóng lại càng xa vời “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Không gian được mở ra, dài rộng, cao, sâu đến ngợp trời. Các hình ảnh tương phản “Nắng xuống, trời lên”, sông dài trời rộng, càng làm không gian thêm bao la, rợn ngợp, vô cùng. Sông nước mênh mông là vậy nhưng vẫn không thể nào che khuất nỗi buồn của tâm trạng, một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn thơ đã lột tả hết tất cả nỗi buồn khôn nguôi nơi sâu thẳm đáy lòng thi sĩ, nỗi buồn không biết ngỏ cùng ai. Nhà thơ Huy Cận đã rất tinh tế khi sử dụng những hình ảnh cổ điển sông, trời, thuyền, nước; lựa chọn thời gian lúc hoàng hôn gợi nỗi buồn kết hợp với những biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật lên bức tranh cảnh – tình. Hai khổ thơ đầu với 8 câu thơ vỏn vẹn trong 56 chữ, những mỗi chữ đều mang ý, mang tình trong đó. Khép lại đoạn thơ, người đọc không khỏi vương vấn với những nỗi buồn cùng thi sĩ. Ngoài ra, tại còn có 🌺 Sơ Đồ Tư Duy Chiều Tối 🌺 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay Tràng Giang Huy Cận Phân Tích Mở Rộng – Mẫu 14 Bài văn mẫu Tràng giang huy cận phân tích mở rộng dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo thêm những liên hệ hay. Huy Cận 1919 – 2005, tên khai sinh là Cù Huy Cận, là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ về cảnh thiên nhiên con người sông nước trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tràng giang” được ông sáng tác vào năm 1939 đăng lần đầu tiên trên báo “Ngày nay”, sau đó in vào tập “Lửa thiêng”. Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng. Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.“ Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó gợi lên hình ảnh những con sóng lồng lên nhau và dòng nước cuốn trơi đi xa. Trên dòng dông hình ảnh con thuyền lững lờ xuôi mái nước song song. Dòng sông rộng lớn là thế sao lòng người đầy ắp nỗi buồn. Thuyền và nước luôn gắn liền với nhau thuyền đi được là nhờ nước xô đi thế mà trong thơ Huy Cận lại thấy thuyền và nước chia lìa, bị xa cách nghe đầy xót xa gợi trong lòng nhà thơ buồn trăm ngả, “Trăm” là số nhiều chỉ nỗi buồn dài vô hạn. Hình ảnh “củi khô” chỉ sự cô đơn nhỏ bé, “lạc” mang nỗi buồn vô định trôi nổi, lênh đênh trước cảnh thiên nhiên rộng lớn gợi cho người đọc thấy được cảnh cô đơn trống vắng. Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. “Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao “bến cô liêu”. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như sông, trời, nắng, cuộc sông còn người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng trước mắt nhà thơ lại hiện ra những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò cần gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Hình ảnh bèo trôi dạt gợi sự bấp bênh, trôi nổi không biết đi đâu về đâu vô định hướng giữa dòng sông. Ở đây tác giả không chỉ một hay hai cái bèo mà “hàng nối hàng”. Hình ảnh gợi cho người đọc đau xót, cô đơn trước thiên nhiên mênh mông rộng lớn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết “Mênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mật.” Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “…không…không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào. Hết nhìn xung quanh, nhìn ra xa và nhà thơ lại tiếp tục nhìn ra bầu trời “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Câu thơ giúp người đọc hình dung ra những núi mây trắng xóa được ánh nắng chiếu vào nhìn như được dát bạc. Động từ “đùn” sử dụng rất tài tình những đám mây như có nội lực bên trong từng lớp mây cứ đùn ra đùn mãi. Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển. Hai câu thơ cuối chúng ta bắt gặp nét tâm trạng hiện đại của nhà thơ “Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Từ láy “dờn dợn” kết hợp với cụm từ “vời con nước” cho thấy nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước. Cả bài thơ vừa mang nét cổ diển vừa mang nét hiện đại, ngôn ngữ nhẹ nhàng sâu lắng hình ảnh sáng tạo quen thuộc sông, nước, thuyền…đã tạo lên bức tranh nhiên nhiên rộng lớn nhưng lòng người lại nặng trĩu nỗi buồn, nỗi nhớ. Bài thơ còn thể hiện niềm khát khao hòa hợp giữa những con người và tình yêu quê hương đất nước kín đáo của nhà thơ. Tặng bạn 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Chiều Tối 🌹 Những Bài Văn Mẫu Hay Phân Tích Văn Bản Tràng Giang Luyện Viết – Mẫu 15 Tham khảo bài văn phân tích văn bản Tràng giang luyện viết dưới đây để nắm vững phương pháp làm bài. Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” Hoài Thanh. Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” 1940 rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận. Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển tải nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” có cùng nghĩa để thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ. Và quả thực trước một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã không giấu nổi nỗi buồn mà cứ để nó lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ trụ. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng. Khổ thơ đầu đã mở ra một khung cảnh tràng giang mênh mông, rộng lớn đối lập hoàn toàn với những thứ nhỏ bé như sóng, con thuyền, cành củi khô. Những sự vật ấy đồng thời cũng gợi nên nỗi buồn mênh mang theo sóng nước. Qua các từ gợn, buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nỗi buồn càng trải dài, lan tỏa khắp cả mặt sông dài rộng. Ở đây tuy có sự vật nhưng mọi thứ lại chẳng hề gắn kết, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không tách rời vậy mà thuyền về, nước lại khiến nỗi sầu, nỗi buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhấn rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh củi một cành khô. Sự vật vốn đã chẳng còn sức sống, lại nổi trôi vô định trên dòng sông đã vẽ một nét hiện đại để khắc họa nỗi buồn. Mà hơn nữa nó còn lạc mấy dòng thì không chỉ là nỗi buồn, nó hiện hữu cả nỗi cô đơn. Đó phải chăng là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất định giữa dòng đời của chính tác giả? Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng sông. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xe vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài trời rộng bến cô liêu Nhưng dường như không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ thơ, đìu hiu lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó hay là đâu có có âm thanh của sự sống? Dẫu có có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tô đậm thêm sự tĩnh lặng. Bởi vậy xung quanh chỉ còn là nắng trên trời, sông trước mặt, thứ xuống thứ lên, thứ dài, thứ rộng mà dường như vốn đã xa nay lại càng xa hơn. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với sông vừa có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết mức ở toàn vũ trụ. Chỉ còn lại trơ trọi bến cô liêu thì chúng ta mới biết nỗi buồn đã rộng khắp mọi không gian và nỗi cô đơn càng ngày càng lớn. Lúc này thi nhân không còn đối diện với dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ như thế. Rồi ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu đây một chút sự sống của con người. Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng Lần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa nó chính là hiện thân cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, chứ không phải hàng nối hàng bèo như ở đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như thế, nối tiếp nhau trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng không phải của một cành củi khô nữa mà là của cả một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu? Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói ghém được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con người lúc bây giờ. Bởi vậy nhìn xung quanh đâu cũng thấy mênh mông, đâu cũng không thấy có dấu hiệu của sự sống nào hết. Điệp từ phủ định càng làm cho con người chẳng có chút bóng dáng nào hiện hữu nơi đây. Không một chuyến đò, không một cây cầu thì nỗi niềm thân mật dù một chút thôi cũng thực khó. Thế là chỉ còn lại thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Hai từ lặng lẽ có chút ngậm ngùi vì nhìn hết cảnh trí dòng sông từ trên cao xuống thấp, xa đến gần mà rồi cũng chỉ còn lại những bờ xanh, bãi vàng nối tiếp nhau. Không gian vì thế lại tiếp tục thêm phần mênh mông bát ngát. Nỗi cô đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu hẹp lại theo bất cứ một chiều nào. Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen lẫn chút hiện đại đầy độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Tất cả cũng chỉ để chứa đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Bao nhiêu hi vọng dồn vào khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy mà Lớp lớp mây cao, đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Khung cảnh thiên nhiên lại có sự thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông mênh mông, vắng lặng như những khổ trên mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim, nhà thơ vẽ lên nền trời ấy những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp những áng mây ánh bạc đang đùn trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là cánh chim chao nghiêng được coi là một khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển động của hai sự vật. Chẳng biết cánh chim nhỏ ấy nghiêng nhẹ đôi cánh một cái là bóng chiều sa xuống hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh chim khiến nó ngả nghiêng? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo nên một sự dịch chuyển rất mau lẹ cả về không gian lẫn thời gian. Và thêm một lần nữa lòng người không thể nào xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có thay đổi, có tráng lệ đến đâu trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải. Nhưng lần này nỗi cô đơn đã hóa nỗi nhờ nhà. Biết bao nhiêu cảnh trí trên trời, dưới sông đều dồn về cảm xúc dợn dợn. Từ láy nguyên sáng tạo này của nhà thơ đã khắc hoặc rất chân thực một nỗi niềm bâng khuâng, da diết của “lòng quê” khi nó hô ứng với cụm từ “vời con nước”. Bao nhiêu nỗi buồn rồi cũng trào dâng lên thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay, ở ngay trên mảnh đất quê hương mà lại thấy nhớ quê hương đến như vậy. Thế mà quê hương lại chẳng còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Cảm giác xa quê hương, “thiếu quê hương” trở thành sự rung cảm sẵn có mà chẳng cần đến khói sóng hoàng hôn như thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường mới gợi nên nỗi nhớ quê nhà của thi nhân. Không cần vịn vào đâu, tự khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, da diết, tự thân nó đã bộc lộ một tình yêu thắm thiết, trĩu nặng với quê hương. Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng giang. Bên cạnh phân tích Tràng giang, đón đọc 💕 Nghị Luận Từ Ấy Tố Hữu 💕 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất Phân Tích Thơ Tràng Giang Đơn Giản – Mẫu 16 Đón đọc bài văn phân tích thơ Tràng giang đơn giản dưới đây với những luận điểm rút gọn cơ bản nhất. Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn – nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang 1939 – trích từ tập Lửa thiêng thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn tràng giang đại hải. Tác giả dùng từ Hán – Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông. Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng. Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính; Xanh om cổ thụ tròn xoe xóa tràng giang phẳng lặng lờ.Thuyền đi Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát của dòng sông Củi một cành khô lạc mấy dòng. Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu. Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét song song, điệp điệp, nhưng lại sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người. Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong cuộc đời cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở rộng ra và đẩy lên cao hơn. Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,Nắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu. Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt. Không gian mở rộng sang bên bờ cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa.. Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và. nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê hương. Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng Nắng xuống trời lên sâu chót vót. Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn chót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống. Nhưng cảnh càng xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Các sự vật được bên nhau bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định Mênh mông không một chuyến dò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mật. Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng. Tới ngã ba sóng nước bốn bề,Nửa chiều gà lại gáy bên đêEm về nhà Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương Thuyền không giao nối đây qua đóVạn thuở chờ mong một cánh buồmĐảo Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh nắng trời. Tác giả bình “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì thú, ngời sáng, hùng vĩ. Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” Đỗ Phủ nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai.Hoàng Hạc Lâu Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đứng ngay giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát. Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gửi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san, Tổ quốc”. Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ. Giới thiệu đến bạn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Từ Ấy 🌟 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay Phân Tích Tác Phẩm Tràng Giang Ngắn Hay – Mẫu 17 Bài văn phân tích tác phẩm Tràng giang ngắn hay dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo và vận dụng hoàn thành tốt bài viết. Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, ông là người chiến sĩ cách mạng và những tâm sự về thời cuộc đã được thể hiện mạnh mẽ trong các tác phẩm của ông, khi ông đang viễn cảnh ngắm những sự vật trôi trên dòng sông Tràng Giang dài sâu thẳm nó biểu hiện những tiếng lòng của con người. Cả bài thơ là những lời thơ đượm buồn và nó bao trùm lên không gian của cả bài thơ, với lời thơ thiết tha nhẹ nhàng, nó làm nên những giá trị thơ vô cùng mạnh mẽ và da diết, tác giả đã mở đầu bài thơ với cung bậc cảm xúc đậm buồn và mang những nét riêng “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng”. Hình ảnh mở đầu của bài thơ đó là tác giả mượn hình ảnh của sóng để nói lên tâm trạng của chính bản thân mình, sóng gợn tràng giang những nỗi buồn man mác, dòng nước trôi đi để lại những cảm xúc và tình cảm nồng cháy trong hình tượng thơ, mượn sóng để nói về sự tác động của ngoại cảnh đến tâm hồn của chính mình, những nỗi buồn được nhân lên gấp đôi, nó điệp điệp khúc khúc ngân nga lên những nhịp sống riêng và mang màu sắc giá trị của sự sống con người. Hình ảnh thơ đậm chất lãng mạn nó thu hút con người vào những vòng cuốn riêng, và tạo lên những ưu tư sâu sắc cho những cảm xúc lãng mạn với những lời thơ hay, nói mang những lời tự nói để diễn tả tâm trạng của chính bản thân mình, dòng nước trôi đi qua những con sóng làm vỗ bờ cát càng làm cho hình ảnh thơ mộng và huyền bí hơn, những giá trị to lớn mạnh mẽ mà lời thơ đem lại nó mang chất thơ nhưng lại ngập tràn đượm buồn những cảm xúc. Tràng giang đây là con sông dài, và những tình người bao la mênh mông đang bị sóng nước mênh mang làm cho có tâm trạng cô đơn thơ mộng. Với hình ảnh thơ hay tác giả đã vẽ ra những lời thơ hay và mang đậm màu sắc, những hình ảnh thơ mang giá trị to lớn để diễn tả những hình ảnh mang chất nhạc buồn. Nỗi buồn mênh mang cùng với khoảng không gian vô tận làm cho tâm trạng của con người có chút mông lung và đầy ắp những nỗi buồn, những hình ảnh thơ mang giá trị và đậm sức sống nó cũng thể hiện được những tình cảm mạnh mẽ của con người đối với cuộc sống, đối với thiên nhiên. Những hình ảnh trên một dòng sông Trường Giang rộng mênh mang làm cho con người có những cảm giác rất lạ, những con thuyền đang trôi trên những dòng nước. Ở đây tác giả đã sử dụng những cụm từ láy như điệp điệp hay song song để diễn tả mức độ tăng lên của sự vật, điệp điệp để diễn tả tâm trạng buồn rầu và nó mang những nỗi buồn lớn lao đến vô tận của con người, những hình ảnh thơ mang đậm cảm xúc cũng đã diễn tả được sâu sắc những hình ảnh mang đậm màu sắc và thi vị của cuộc sống. Những con thuyền đang xuôi mái, ở đây nó cũng biểu hiện những trạng thái tự nhiên của những sự vật trên sông, nhưng hình ảnh con thuyền xuôi mái dưới dòng nước, đang có chút gợn sóng, mà sóng ở đây là tác giả thổi hồn mình vào làm cho lời thơ nó có chất buồn và mang những điều kì lạ, khi thuyền cập bến về, thì những dòng nước lại buồn. Ở đây tác giả đã nhân hóa lên dòng xong biết buồn, chính dùng biện pháp này để nói lên tâm trạng của chính bản thân mình, những hình ảnh mang giá trị to lớn và vô cùng sâu sắc đối với mỗi người, hình tượng thơ mang những giá trị về sự sống và màu sắc, ở đây mượn hình ảnh của thuyền và dòng sông để nói lên tâm trạng của chính tác giả khi ngắm nhìn dòng sông Trường Giang dài và rộng, những lời thơ mang chất nhạc buồn làm gia tăng lên những giá trị cảm xúc của tác giả. Trên dòng sông đó tác giả còn quan sát thấy những cành củi khô đang dạt dào trôi trên những dòng nước, tác giả đã dùng một biện pháp đảo ngữ để nói về số phận lênh đênh chưa biết trôi dạt về đâu của con người, củi một cành khô lạc mấy dòng, với sự sử dụng ngôn ngữ đậm giá trị, nó làm gia tăng lên mức độ biểu cảm của lời thơ đối với cả bài thơ. Tác giả còn quan sát được rất nhiều thứ đang tồn tại xung quanh một dòng sông này, với những hình ảnh của cồn cát nhỏ, những ngọn gió đìu hiu thổi “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vót,Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” Những ngọn gió vẫn đang nhẹ thổi trên dòng sông, làm cho lòng người có những cảm giác man mác, và sóng vỗ trên những rặng liễu và đìu hiu những nỗi buồn man mác của con người, giá trị thơ để lại cho chúng ta đó là những hình ảnh mang đậm giá trị và màu sắc thơ giàu sức biểu cảm nó đã mang lại được những giá trị to lớn. Lơ thơ đã nói về mức độ thưa thớt của sự vật hiện tượng, và trong không gian yên tĩnh đó xuất hiện những tiếng của làng xa đang buồn vãn chợ chiều… trên cao tác giả đang ngắm nhìn những ánh sáng hiu hắt và những ánh nắng từ trên cao rọi xuống, hình ảnh thơ thật dài, thơ mộng, và tạo nên những sức sống mạnh mẽ và thu hút lòng người, giá trị của lời thơ mang màu sắc quê hương, những bến cô liêu những dòng sông dài đậm chất buồn và cả cảm xúc về những nỗi nhớ, và sự mênh mang của đất trời. Những hình ảnh thư mang giá trị to lớn khi nói về những sự phiêu bạt và không định hình, dùng thiên nhiên để nói lên tâm trạng của chính mình, đây là phong cách nghệ thuật độc đáo và thu hút được sự hấp dẫn của người nghe, hình tượng thơ giàu giá trị, nó mang những cung bậc riêng và những tâm trạng riêng biệt sâu sắc dành cho mỗi người Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cần gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Ở đây câu thơ đã mang đậm cảm xúc về số phận lênh đênh chưa biết đi về đâu của con người, những hình ảnh đó biểu hiện những cung bậc cảm xúc giàu giá trị và nó mang những lời thơ sâu lắng đem lại niềm tin yêu và những khoảnh khắc đáng nhớ trong con người, những hình tượng thơ mang màu sắc của thiên nhiên của dòng sông. Những cánh bèo trôi dạt trên dòng sông diễn tả những số phận hẩm hiu không biết đi về đâu của tác giả, một khoảng không gian mênh mông sâu lắng, và những cảm xúc khó tả của con người, những tình cảm đó vẫn lặng lẽ, tiếp những bãi vàng, đó là những bãi cát trên biển xanh đó là những dòng sông rợp bóng mát. Cả bài thơ là những lời bộc bạch tâm trạng buồn cô đơn của tác giả, ở đây tác giả đã dùng hình tượng thiên nhiên để diễn tả cảm xúc của mình. Mời bạn tham khảo 🌠 Bình Giảng Từ Ấy 🌠 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Bài Tràng Giang Lớp 11 – Mẫu 18 Giới thiệu đến bạn bài phân tích tác phẩm Tràng Giang lớp 11 hay và ý nghĩa nhất. Thiên nhiên đẹp tươi hùng vĩ luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn và kéo theo đó là vô vàn cảm xúc. Đứng trước cái bao la hùng vĩ của trời đất khiến con người đôi khi thấy mình nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn. Và rồi cứ thế bao nhiêu cảm xúc trong lòng bỗng trào dâng, đó là nỗi nhớ quê, là những tâm sự chưa bao giờ kể. Thật vậy, thiên nhiên luôn có sức hút lớn đối với người nghệ sĩ, nó có một mãnh lực mạnh mẽ nào đó để rồi kéo người nghệ sĩ đắm chìm vào trong vẻ đẹp bí ẩn ấy. Có phải cũng vì bị cuốn vào trong mê cung cảm xúc của mình để rồi Huy Cận đặt bút viết lên bao tâm tư trong lòng. “Tràng Giang” là sản phẩm của những giây phút chơi vơi, cô đơn lạc lõng khi đứng trước dòng sông bao la, rộng lớn. Mở đầu “Tràng Giang” là khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song,Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng.” Vẻ đẹp của thiên nhiên quả thật không có gì để bàn cãi, thế nhưng đứng trước cái bao la hùng vĩ ấy con người ta lại cảm thấy mình nhỏ bé, sự cô đơn lạc lõng của người nghệ sĩ khiến cho cảnh vật cũng thấm đượm một nỗi man mác buồn. Chỉ là những con sóng gợn lăn tăn trên mặt sông thôi thế nhưng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, nỗi buồn của người nghệ sĩ khiến cho mọi thứ trước mắt ông cũng man mác buồn. Những cơn sóng chẳng còn hồn nhiên, chẳng có tâm hồn mãnh liệt như “Sóng” của Xuân Quỳnh mà nó lại mang cái vẻ buồn thiu hời hợt. Cả không gian rộng lớn là thế nhưng cũng chỉ có thuyền và nước, con thuyền lặng lẽ trôi mang theo nỗi buồn ảm đạm, thuyền đi rồi khiến cho bến phảng phất nỗi buồn, nỗi cô đơn. Nhưng thế chưa đủ, nỗi cô đơn lạc lõng dâng lên cực hạn khi “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Sự vật cũng chỉ có đơn chiếc mà không có đôi có cặp, cô đơn lại càng thêm đơn côi mỏi mệt. Và nỗi buồn này lại nối tiếp nỗi buồn kia, sự cô đơn bủa vây tràn ngập cả không gian “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Nỗi buồn da diết ấy thấm cả vào cảnh vật, những cơn gió thổi vi vu trên không cũng trở nên đìu hiu. Gió như thôi nỗi buồn vào lòng người khiến người ta thêm ngột ngạt bởi những cơn ớn lạnh. Và cả không gian rộng lớn ấy chẳng có một bóng người, không âm thanh, không tiếng cười nói hay sự xuất hiện của con người. Chợ vốn là nơi con người tu tập để trao đổi hàng hóa, là nơi tấp nập người ra kẻ vào thế nhưng đáng buồn thay vì lại là chợ chiều. Cảnh chiều tàn vốn hiu quạnh, vắng lặng và ngập tràn bóng tối của cô đơn. Cảnh chợ chiều vốn cũng là thời khắc của một loạt những thứ đang tàn. Lúc này con người đã về hết, cả không gian bỗng im bặt đi và rồi bất chợt trong một khoảnh khắc nào đó bóng tối bủa vây nuốt chửng mọi thứ, bóng tối dày đặc và ngột ngạt đằng kia sẽ đến. Nỗi cô đơn ngập tràn cả không gian và thời gian, mở rộng cả chiều rộng và chiều sâu. Và nỗi đau thầm kín ấy lan ra khắp cả bầu trời, nó như một quả bóng được bơm căng quá nay nổ tan tành giữa mặt sông, phủ đầy không gian bởi nỗi buồn từ người đã thổi quả bóng đó. Người đó cứ hít thở nhưng là những hơi thở nặng trịch và cô đơn, cuộc sống chưa bao giờ là dễ dàng và đâu đâu cũng là muộn phiền và nỗi đau. “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.” Và người nghệ sĩ ấy vẫn vùi mình trong nỗi buồn da diết. Ông đưa đôi mắt nhìn về hướng xa xăm vô định và vô tình bắt gặp khung cảnh khiến lòng mình buồn hơn. Phía xa xa trên mặt sông những tán bèo đang trôi dạt vào nhau thành từng hàng, nó trôi mà chẳng theo một phương hướng nào cũng như sự trôi chảy của cuộc đời con người, thời gian cứ qua đi và cuộc đời cứ trôi một cách lặng lẽ đầy buồn đau. Không gian rộng lớn ấy chỉ toàn sông với nước, mọi thứ cứ lặng lờ trôi và chẳng có dấu hiệu của con người. Không có tiếng ông lái đò chèo thuyền chở khách qua sông, cả không gian im bặt chỉ thấy tiếng thở nặng nề của người nghệ sĩ, tiếng trái tim đang khóc thét lên vì đau đớn, không gian rộng lớn càng khiến người ta chênh vênh vô định. Và nỗi buồn ấy vẫn tiếp tục ở bốn câu thơ cuối “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Nhà thơ đã khéo léo sử dụng bút pháp chấm phá để phác lên khung cảnh núi và mây. Mây mù che kín đỉnh núi, những đám mây trở nên có nội lực để rồi có thể tự đùn ra. Không gian rộng lớn càng nặng nề hơn bởi bóng chiều tà đang bủa vây vạn vật, bóng tối sắp đè lên và bóp chết những thứ mà nó bao bọc. Mặc dù đang đứng ở quê hương thế nhưng người nghệ sĩ đa cảm ấy vẫn thấy nhớ quê hương mình bởi chăng quê hương đã không còn, cả đất nước đang chịu chung nỗi đau mất nước nhà tan. Và cứ thế người nghệ sĩ ấy vùi mình vào trong nỗi đau vô tận ấy, có lẽ ông muốn quên đi thực tại, quên đi nỗi đau mà cả dân tộc đang phải gánh chịu. Thật vậy phải yêu và trân trọng quê hương đất nước bao nhiêu thì ông mới thấy lòng mình nặng nề đến thế. Đó là tấm lòng của một người yêu quê hương đất nước, là nỗi lòng thầm kín của một đứa con đứng trước cảnh nước mất nhà tan mà bất lực trong nỗi đớn đau đang gào thét trong trái tim mình. Xem nhiều hơn 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Từ Ấy 🌹 Bài Văn Cảm Nhận Hay Nhất Bài Văn Phân Tích Tràng Giang 11 Ấn Tượng – Mẫu 19 Bài văn mẫu phân tích Tràng giang 11 dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm có những những cách hành văn hay. Huy Cận – một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải, nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945, khi cái tôi của mỗi cá thể được coi là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong “Tràng giang”, từng câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở. Cái nỗi buồn khó nắm bắt, khó định hình của một tâm hồn dễ rung động trước cảnh vật, của trái tim khao khát được yêu thương, được hòa quyện. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới được coi như “tập sách gối đầu giường” của các nam thanh nữ tú đương thời, viết về tình yêu, về nỗi băn khoăn, trắc trở trong tình cảm đôi lứa. Chính vì thế, tinh thần chủ đạo trong những bài thơ của thời kì này là nỗi buồn, sự cô tịch, quạnh hiu. Nhóm bút “Tự lực văn đoàn” bao gồm những cây bút lão luyện như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đã tạo nên một thời kì thơ ca lãng mạn, tình tự. “Tràng giang” là một lời tự thuật về cái khắc khoải, buồn đau của một cái tôi nhỏ nhoi giữa mênh mông trời đất. Con người cảm thấy nhỏ bé, cô độc giữa không gian vô tận. Ra đời năm 1940 trong tập “Lửa thiêng”, tác phẩm được coi là tác phẩm đưa Huy Cận lên bậc lão làng trong phong trào Thơ mới. Lấy điểm nhìn từ bờ Nam bến sông Hồng, giữa sông nước bất tận, lòng người gợi lên một nỗi u hoài cho thân phận nhỏ bé, vô định giữa đất trời khắp cùng. Mở đầu bài thơ là lời tựaBâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Gợi ra một không gian “rộng”, “dài” của trời và sông, tác giả muốn nhấn mạnh sự cô quạnh của chủ thể con người, “bâng khuâng” giữa đất trời bao la. Trời tuy rộng nhưng lại buồn thương, mênh mang, sông tuy dài nhưng lại quạnh hiu đến thê lương. Phải chăng, thời gian lúc ấy đang là buổi xế tà với ráng lam chiều hoang hoải, con người một thân một mình bâng khuâng giữa không gian rộng mở của cả trời và đất. Nỗi niềm nhà thơ trôi cùng dòng nước lặng lờ dưới sông, cùng đám mây chùng chình trên khoảng không vời vợi. Mang nỗi buồn ấy vào trong từng nhịp thở, mở đầu bài thơ là những nét chấm phá mộc mạc về thiên nhiên Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song “Tràng giang” là con sông dài, con sông bất tận với những gợn sóng lăn tăn. Nhịp thơ 4/3 mang âm hưởng chậm rãi, đìu hiu với từ láy “điệp điệp” tả nỗi buồn. Từng đợt sóng trên mặt nước làm nên một câu thơ động. Con sông như trải rộng ra theo tầm nhìn của tác giả. Câu thơ không hề tĩnh, sự lay động của thiên nhiên được tác giả bắt trọn vào câu chữ. Người xưa có câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, con sông không đơn thuần chỉ mang dòng nước, mà còn mang có nỗi u buồn của nhân vật trữ tình. Con sông rộng dài hay nỗi buồn ngày càng rộng thêm ra. “Con thuyền xuôi mái nước song song”, trong cái không gian cao vời vợi của trời mây, cái miên man của những con sóng, thuyền trở nên đơn côi đến lạ lùng. Thuyền xuôi theo dòng nước, thuyền vô định để mặc sóng xô đi. Không chỉ là “tràng giang”, con sông dài, mà còn là “song song”, những luồng nước nối đuôi nhau xa mãi tận chân trời. Hai từ láy “điệp điệp” và “song song” tạo âm hưởng vang vọng như âm thanh dội lại giữa núi rừng, khiến câu thơ dài hơn, trầm hơn, dội vào lòng người đọc một nỗi buồn tha thiết. Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lấy nỗi sầu làm tinh thần chủ đạo, Huy Cận luôn mượn thiên nhiên, nói thiên nhiên sầu hay là nói ra chính cái sầu trong tâm khảm. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, bóng thuyền chỉ mới vừa xuất hiện đã lại biến mất, nước “sầu”, nước buồn nhớ thương thuyền hay chính tác giả buồn sầu. Thuyền đi rồi, nỗi “sầu trăm ngả” có phần mơ hồ, vô cớ. Thuyền nào đi mãi rồi chẳng đến bờ, nhưng nước vẫn mang nỗi nhớ nhung, buồn bã. Trên mặt nước lặng lờ ấy, hình ảnh “củi một cành khô” trôi vô định, “lạc mấy dòng” giữa luồng nước mênh mang. Hình ảnh động, biện pháp đảo ngữ “một cành củi khô” thành “củi một cành khô” gợi sự cô tịch đến tang thương. Sóng cứ lăn tăn, nước cứ hững hờ, chỉ có một cành củi nhỏ bé, khô khốc lạc trôi theo dòng nước, như tiếng lòng kẻ say tình cứ cô độc, man mác trôi. Cả bốn câu thơ đều có những hình ảnh, chi tiết tả sự vận động của nước, của trời, nhưng những âm thanh ấy chẳng đủ để khỏa lấp nỗi chơi vơi trong lòng. Kết cục lại vẫn là sự lạc lõng, cô đơn, hoang hoải trôi theo con nước tới nơi vô định. Tràng giang là một bức tranh miêu tả đa chiều về cảnh sắc thiên nhiên của vùng ven sông trong một buổi chiều tà hiu quạnh. Mở đầu với tầm nhìn ngút mắt của sông, của trời, Huy Cận bắt đầu những nét chấm phá về cây cối, cảnh vật bên bờ sông Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu. Liên tiếp những từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” để tả những cồn cát nhỏ rải rác bên sông. Những từ ngữ được tác giả lựa chọn rất khéo léo và đắt giá, đặng làm nổi bật cái trống trải, ít ỏi và thưa thớt của cảnh vật. Những cồn cát đã nhỏ bé lại còn “lơ thơ”, từng cơn gió “đìu hiu” mang cảm giác cô liêu, đáng thương. Dưới tầm nhìn của một tâm hồn thi sĩ, vạn vật đều trở nên tịch liêu giữa trời rộng sông dài. Tả cảnh ven sông, tác giả không hề nhắc đến những bãi đất phù sa màu mỡ, cũng chẳng có bóng người sinh sống. Trong cái nhìn của ông chỉ có những cồn cát, những cơn gió thinh không, một cành củi khô lạc dòng,… Cảnh vật đan xen với nhau, hòa trong nỗi buồn của nhà thơ. Thảng hoặc, âm thanh “tiếng làng xa vãn chợ chiều” xuất hiện. Từ “đâu” gợi sự như có như không, vô hướng không rõ ràng. Thanh sắc cuộc sống mờ nhạt, xa xăm. Tưởng như cảnh vật đã đủ sầu, đủ thảm, thì ngay cả cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây cũng chẳng hề hoạt náo, rộn ràng. Trong bức tranh ráng lam chiều bên triền sông Hồng màu mỡ,, thời điểm đáng ra là giờ khói cơm với những làn khói đụn lên từng hồi thì ở nơi đây, thời gian và cảnh vật chỉ rặt một nỗi buồn. Buồn của lòng người đượm vào thiên nhiên, buồn của đọt nắng sắp tắt. Từ thị giác “cồn nhỏ” trơ trọi, cây cỏ “đìu hiu”, đến cả âm thanh cũng lúc vô lúc hữu, tiếng tan chợ gợi sự tan rã, kết thúc cho một ngày dài lê thê. Nỗi buồn được đẩu tới cao trào với hai câu thơ Nắng xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu. “Nắng xuống”, nắng tắt hẳn, thay thế cho những sự chống chọi yếu ớt của mặt trời là màn trời kĩu kịt, nặng nề. Nỗi buồn lên đến “chót vót” rồi lại tràn trề ra cả “sông dài trời rộng”. Sự vô biên được nới rộng cả về chiều dài, bề ngang. “Nắng xuống trời lên”, động từ đối lập “lên” và “xuống” mang lại chuyển động, không gian như đước kéo giãn. Tác giả không dùng “cao chót vót” như thường lệ, mà lại là “sâu chót vót”. Điểm nhìn của thi sĩ không chỉ dừng lại ở độ sâu, độ cao, mà còn là cái nhìn hun hút vào bầu trời để tìm thấy đáy giữa màn trời đang từng bước xâm chiếm không gian. Dường như ánh mắt của chủ thể trữ tình đi tới đâu, bầu trời sẽ rộng hơn, sâu hơn tới đó. Chính vì vậy mà cảm “cô liêu” lẻ bóng mới ngày càng trở nên sâu đậm. Giữa sông dai, trời rộng, chỉ có bến là lưng chừng ở giữa, quạnh hiu không một bóng người. Tâm hồn rung cảm của thi sĩ cũng cảm thấy chơi vơi, buồn bã bởi sự vắng vẻ của bến bờ. Hình ảnh bến đò trước giờ vẫn là biểu tượng của kẻ đi người ở, của sự xa lìa chia cắt. Đứng giữa màu trời chiều này, sự thê lương lại càng được tô đậm thêm rõ nét. Hướng tầm mắt ra xa xuôi dọc theo con sông dài, những gì thu được vẫn chỉ là sự thưa thớt của tạo hóa Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Từng hình ảnh hiện ra theo trình tự quan sát, nhìn từ điểm gần trước mắt cho đến tầm nhìn xa bao quát cả dòng sông. Những cụm bèo “hàng nối hàng” gợi sự chen chúc, nhưng lại “dạt về đâu”, trôi vô định, mất phương hướng. Từ “dạt” cũng bày tỏ sự lênh đênh, chìm nổi. Ngay cả những phương tiện để di chuyển trên con sông dài thường ngày nay cũng chẳng hề xuất hiện. “Không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, không có sự kết nối nào với thế giới từ vị trí của tác giả. Cuộc sống dường biệt lập, tách lìa hoàn toàn nơi nhà thơ đang đứng. Phải chăng, hình ảnh bèo trôi dạt chính là thân phận của nhà thơ trong xã hội đương thời, số phận của một trí thức yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp nhưng chẳng thể xác định được bản thân muốn gì, cần gì. Giữa mênh mông bể sở, không cầu, không thuyền, hay chẳng có sự giao lưu nào với nhân loại. Sông nước dài rộng, “bờ xanh tiếp bãi vàng” lại càng làm không gian dài dằng dặc, hun hút. Người đọc hình dung về hai luồng suy nghĩ trong thâm tâm tác giả, rằng Huy Cận khao khát một sự liên lạc với con người, khao khát một chuyến đò, một cây cầu để được giao tiếp, được tìm kiếm tri âm, hay chính ông đã từ bó cái náo nhiệt ngoài xã hội kia để về với nơi cồn cát đồng không mông quạnh này, nhìn chuyến đò dần dần biến mất mà tiếc nuối, níu kéo. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng buồn thương, đìu hiu, bao trùm lên cả sự vật. Viết theo trình tự quan sát sự vật, sau trời, nước, sau những bãi bồi, nhà thơ đặt hồn vào những sự vật đang di chuyển trên tầm trời cao Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa. Hình ảnh lớp lớp mây cao bảng lảng trôi trên bầu trời, từ láy “lớp lớp” hô ứng với “điệp điệp” tạo cảm giác chồng chất. Thời gian đã ngả từ xế trưa sang chiều, rồi cuối cùng là “bóng chiều sa” theo cánh chim vội vàng tìm nơi trú ẩn. Hoạt động của một ngày thường nhật đang chạy đua với thời gian. “Núi bạc” là núi bạc vì sương khói, vì những đám mây trung thấp xuống che phủ đỉnh núi cao. Như một bức tranh thủy mặc, có mây, có núi, có sông nước, điểm xuyết vài cánh chim nhỏ hối hả trốn màn đêm, bao phủ là sự cô đơn, ảm đạm. Một từ rất đắt trong câu thơ tả cảnh, “đùn núi bạc”, từ “đùn” thể hiện sự vận động với tốc độ nhanh chóng. Từng đợt mây bay nhanh, những đám mây khổng lồ xếp chồng, đùn đẩy nhau tạo nên một bức màn bạc mờ ảo. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch ấy, lòng người thi sĩ không khỏi thốt lên một tiếng đời Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. dòng sông miên man với những con sóng chạy đua, chạy đua đến cùng trời cuối đất để rồi lắng tai nhận ra một tiếng sóng khác biệt, tiếng sóng của làng quê. Thả hồn mình vào thiên nhiên, để cho tâm hồn được dạo chơi với vũ trụ, cuối cùng, Huy Cận cũng gom lòng mình lại, quay trở về với thực tại trong thời khắc giao thoa giữa ngày đêm. Dòng sông dài, “tràng giang” của đất trời hay chính là tràng giang của lòng người, tiếng thôn quê mộc mạc giản đơn rốt cuộc cũng là cái để người ta mơ, người ta nhớ khi một mình một thân phận bé nhỏ. Dòng sông giống như biểu tượng của sự trường tồn và vĩnh cửu, là chất điểm đạm, hiền hòa hàng ngàn năm vẫn thế. Tổ hợp từ láy từ “điệp điệp”, “song song”, “lớp lớp” và cuối cùng là “dợn dợn” gợi sự triền miên, dòng sông vẫn chảy như thế, con nước vẫn một đi không bao giờ trở lại, chỉ còn nhà thơ ở đây, lòng khôn nguôi nỗi khắc khoải thương nhớ quê nhà. “Khói hoàng hôn” chính là khói bếp, là bữa cơm của bà, của mẹ, là những ngày tháng tuổi thơ rong chơi vơ vẩn, chỉ mong đến giờ chiều về nghi ngút khói bếp, lấm lem nhọ nồi. Tâm trạng của một người con xa quê hiện rõ mồn một trong tâm lí tác giả, buổi chiều, cái dớp chiều tàn buồn bã khiến tâm hồn ấy không tránh khỏi nhớ nhung. Giống như lời tâm sự trữ tình, sự vấn vương, tình cảm da diết cho quê hương được Huy Cận gửi gắm vào tác phẩm. Thì ra, từ đầu đến giờ, nỗi buồn bao trùm vạn vật ấy tựu chung lại chính là nỗi nhớ quê hương của một người con xa xứ mang tâm hồn nhạy cảm, để rồi trong một buổi chiều tà đứng bên bờ sông Hồng, nỗi nhớ quê hương lại nồng cháy trong lòng. Với hồn thơ trữ tình lãng mạn cùng cái tôi nhạy cảm, thuần khiết, Huy Cận đã tạo nên một tác phẩm nghệ thuật, trong thơ có họa, trong thơ có tình. Mượn cảnh hoàng hôn bên bờ sông với đất trời mênh mang, tác giả gửi vào đó những rung động của một kẻ si tình. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương cùng cái tôi nổi bật, ngòi bút độc đáo với khả năng sử dụng ngôn từ đặc sắc, xúc tích mà bao hàm, Tràng Giang đã đưa Huy Cận lên vị trí lão làng trong nền văn học Việt nói chung và thời kì Thơ mới nói riêng. Theo đúng tinh thần sâu khổ, buồn thương, bài thơ mang đến cho độc giả một cảm giác thê lương, cô quạnh đến nao lòng. Tràng Giang là lời tâm sự, giãi bày của một người con tha hương xa quê, trước cảnh đẹp động lòng của thiên nhiên xế chiều mà tức cảnh sinh tình, xuất khẩu thành thơ. Giữa cái mênh mông, rộng lớn tột cùng của thiên nhiên là một trái tim khao khát được cảm, được yêu thương, một cái tôi cô tịch, nhạy cảm, mỏng manh. Gợi ý cho bạn 💧 Mở Bài Từ Ấy Tố Hữu 💧 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Phân Tích Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 20 Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích bài Tràng giang facebook giúp các em học sinh tham khảo những ý tưởng làm bài độc đáo. Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ. Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ. Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngãCủi mội cành khô lạc mấy dòng Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh “sóng gợn” gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống trời lên sâu chót vót,Sông dài trời rộng bến cô liêu. Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh “cồn, gió, làng, chợ, bến” để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được. Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới. Nắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng bến cô liêu Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận. Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim. Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Tác giả đã dùng tự láy “dợn dợn” để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi. Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Kết Bài Từ Ấy 🍀 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 – Mẫu 21 Gửi bạn tham khảo mẫu văn phân tích khổ 1 bài thơ Tràng giang độc đáo và ấn tượng nhất, xem ngay nhé! Huy Cận được biết đến với một hồn thơ “cổ điển nhất trong phong trào Thơ mới”. Ông tâm sự “Trước Cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc”. Và bài thơ “Tràng giang” được viết ra thể hiện một nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước cuộc đời đặc biệt trong khổ đầu bài thơ Tràng giang. Mở đầu bài thơ, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng hình ảnh thơ quen thuộc con thuyền, dòng sông để gợi nên cảm xúc “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song song” Âm Hán Việt “tràng giang” đã được tác giả sử dụng bằng việc hiệp vần “ang”. Nó gợi cho người đọc một không gian rợn ngợp, đây là cách thể hiện nổi bật cho phong cách thơ Huy Cận. Tâm trạng nhà thơ được mở ra “buồn điệp điệp”. Đây là nỗi buồn đang được cụ thể hóa, nó được hữu hình giống như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, cứ thế không ngớt vỗ vào bờ. Nỗi buồn ấy dai dẳng mà âm ỉ, như có sự tồn tại vĩnh cửu. Từ “song song” như nói đến hai thế giới đứng cạnh nhau mà không bao giờ gặp nhau. Đó là sự gần gũi mà lại chẳng có sự gặp gỡ. Qua đó, tác giả nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô độc của con thuyền trên dòng sông, hay chăng đó cũng chính là sự đơn lẻ của con người bên dòng đời. Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập tạo nét cổ kính cho khổ thơ. Theo quy luật thuyền và nước là hai sự vật gắn bó mật thiết, nhưng trong bài thơ lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gợi sự xa cách, gợi cảm giác cô đơn, mất mát “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Hình ảnh cành củi khô táo bạo và độc đáo trong thi ca Việt Nam. Đó là hình ảnh có một không hai. Huay Cận đã thả vào Thơ mới một cành củi khô để nói hộ tấm lòng cả một thế hệ Thơ mới. Bởi vì, xưa nay những vật tầm thường ít được đặt vào thơ, đặc biệt là thơ cổ, hình ảnh củi khô mang vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng lại có giá trị biểu đạt ghê gớm. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng chắt lọc các từ đơn, khiến câu thơ như bị dập gãy, vỡ vụn. 7 tiếng trong một câu thơ mà vỡ thành 6 mảnh cô đơn, sự cô đơn của cành củi khô với sự vô tận của dòng nước. Khổ thơ đầu bài “Tràng giang”, tác giả Huy Cận đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô tận. Đó là sự cô đơn, lẻ loi của con người trước dòng đời, và không tìm thấy sự giao cảm của bản thân với cuộc đời. Khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 1 Tràng Giang 💕 Những Bài Phân Tích Hay Phân Tích Tràng Giang Khổ 2 – Mẫu 22 Dưới đây là mẫu văn tham khảo cách phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giang đặc sắc của Huy cận. Huy Cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu mộng của mình để lượm lặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ. Tràng Giang có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong cách thơ Huy Cận. Đặc biệt khổ 2 bài thơ, là những nét vẽ vừa đẹp vừa thấm đẫm chút buồn man mác phủ lên toàn bộ cảnh vật. Huy Cận đã đưa vào thơ một cách trần trụi rất riêng những chất liệu của đời sống. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.” Thiên nhiên một lần nữa xuất hiện trong thơ nhưng chỉ là những cảnh vật gợi sự khô héo, đìu hiu tàn lụi. Những cồn nhỏ như đang nương vào cơn gió để khe khẽ kể về nỗi buồn của mình. Và ngọn gió, dường như cũng mang trong nó nỗi buồn man mác của cảnh vật mà hồn thơ âu sầu ảo não của Huy Cận đã hoàn thành. Tiếp đến, chợ vốn là là hình ảnh của không gian sống, là biểu tượng của cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc. Nhưng chợ ở đây, cũng là chợ chiều đã vãn. Cảnh vật héo buồn, sinh hoạt và cuộc sống của con người cũng đi dần vào thế nghỉ ngơi, vào sự buồn bã hiu quạnh. Hai câu thơ cuối có thể nói là tuyệt bút nên thơ của Huy Cận, cách dùng từ độc đáo của thi nhân đã lột tả một cách chính xác cảm giác của nhân vật trữ tình khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Những chuyển động đối lập nhau lên-xuống cùng với cách tạo vế đối nắng xuống, trời lên tạo cảm giác như một chiếc tù giam lỏng dồn nén con người ở giữa cảm thấy ngột ngạt, bí bách và chán chường trong sự vận động xoay guồng của tạo hóa. Sâu chót vót là cụm từ độc đáo, vừa diễn tả độ sâu, vừa diễn tả độ cao, vừa tạo cảm giác mở về sự cảm nhận của người đọc. Và rồi tiếp nối mạch cảm xúc ấy, là cảm giác cô liêu, cô đơn đến cùng cực của con người giữa sông dài trời rộng, giữa sự vô tận. Chỉ với 4 câu thơ, Huy Cận đã yểm vào đó linh hồn cho từng câu chữ, để bắt cảnh vật sống dậy với chất buồn thấm đẫm trong từng thớ vỏ, đồng thời tạo nên cảm giác âu sầu ảo não vốn rất đặc trưng trong thế giới thơ Huy Cận. Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 2 Tràng Giang 🌠 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 – Mẫu 23 Phân tích khổ 3 Tràng giang để cảm nhận được nổi nhớ nhà của tác giả ngay nhé! Cù Huy Cận 1919-2005, bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như thế. Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp, đặc biệt là trong khổ thơ thứ 3 đã thể hiện sâu kín nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Khổ thơ thứ 3 bộc lộ rõ nét nỗi niềm và hoàn cảnh của tác giả, cảnh sông nước mênh mông, trời cao, đất xa dần được thu lại bằng hình ảnh “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Bèo vốn là một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ điển, ám chỉ những kiếp người lênh đênh, vô định, mặc cho dòng đời đẩy đưa, trong thơ Huy Cận hình ảnh “bèo dạt về đâu” chính là một lời tự hỏi, là sự đau đớn trước số phận, trước thời cuộc, khi chính bản thân ông cũng không thể tìm ra một lối đi đúng đắn, dù muốn thay đổi thế sự nhưng chịu bất lực. Mấy từ “hàng nối hàng” chính là cái hay trong thơ Huy Cận, ý chỉ số phận bèo dạt như ông trong xã hội lúc bấy giờ không phải hiếm mà là cảnh ngộ chung của một thế hệ, một tầng lớp những con người yêu nước, có lòng mà không có sức, bế tắc và đau xót vô cùng. Đến câu thơ tiếp “Mênh mông không một chuyến đò ngang” không chỉ là bộc lộ cảnh tượng hoang vắng, quạnh quẽ của dòng sông, bộc lộ nỗi cô đơn trong lòng, mà còn chính là để nói lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ. Giữa cảnh tăm tối ấy, lữ khách muốn tìm một con thuyền, một ngọn lửa sáng để cùng nhau đấu tranh giải phóng dân tộc, thì nhìn lại dòng sông lại im ắng “không một chuyến đò ngang”, không có một tổ chức, một con người nào có thể dẫn dắt đưa lối, kéo những tiểu tư sản trí thức như Huy Cận ra khỏi sự hoang mang, vô định. Sự thực ấy khiến người ta không khỏi xót xa cho một đất nước, một dân tộc, và cả những con người lạc lõng “Không cầu gợi chút niềm thân mật”, cuối cùng họ Huy Cận vẫn phải tự ôm lấy nỗi cô đơn, buồn tủi giữa thiên nhiên rộng lớn mà ảm đạm “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, chứ không còn một cảnh tượng nào khác, một con người nào khác. Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình, ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu nặng. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong khổ thơ thứ 3 Tràng giang bằng lối thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Tràng Giang 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 4 – Mẫu 24 Giới thiệu đến bạn cách phân tích khổ 4 bài thơ Tràng giang ấn tượng dể được điểm cao nhất. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc. Bài thơ “Tràng giang” được trích từ tập “Lửa Thiêng” thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang. Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc….Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Đây là khổ thơ kết tinh của làng quê “dợn dợn vời con nước” của Huy Cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha với quê hương, đất nước. Hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Cách cảm nhận của nhà thơ hết sức tinh tế tạo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều “lớp lớp mây” chồng xếp lên nhau thành núi mây trắng trông như được dát bạc. Từ “đùn” rất giàu giá trị tạo hình gợi nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ “Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa” Một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà “Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch “Cửa đầu vọng minh nguyệt – Đê đầu tư cố hương”? Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu. Thế nhưng Thôi Hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. Còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! Từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng! Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lòng mình trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương , đất nước tha thiết. Là khổ thơ xuất sắc nhất trong tác phẩm, và cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất nét tâm trạng của một chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Thế mới hiểu vì sao người ta nói Huy Cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. Nhờ kết hợp những biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách thơ mới tài năng. Và Huy Cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn không thể tách rời với văn học Việt Nam. Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang 🌳 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ Cuối – Mẫu 25 Khổ cuối bài thơ Tràng giang thật đặc biệt, cùng phân tích để cảm nhận ngay nhé! Cùng với các nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,… Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới nói riêng và thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung. Mỗi tác phẩm của mình, ông đề gửi vào trong đó nỗi buồn nhân thế về cảnh ngộ của non sông đất nước và số phận con người. Huy Cận còn là người yêu thơ ca Việt Nam, yêu thơ Đường và chịu ảnh hưởng của thơ ca Pháp, phong cách và đặc điểm sáng tác này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tràng giang”. Nếu như trong ba khổ thơ đầu của bài thơ Tràng giang, mỗi câu mỗi chữ mỗi hình ảnh đều như gợi lên trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên tha thiết tình người, mang nặng nỗi sầu của thi nhân trước cái vắng lặng của cảnh vật, nỗi cô đơn của con người thì đến khổ thơ cuối cùng của bài thơ nỗi buồn ấy như lan tỏa khắp mọi không gian, thời gian và đặc biệt, chúng ta sẽ nhận thấy tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng của tác giả dường như được hiện rõ trên từng câu chữ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ với những hình thơ cổ điển, giàu tính ước lệ, tượng trưng thường thấy trong thơ ca cổ điển giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về nỗi buồn của tác giả trước khung cảnh chiều tà. Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Câu thơ mở đầu khổ thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, lớn lao vừa gần gũi, thân quen. Bức tranh ấy được vẽ nên từ hình ảnh những đám mây trời – một hình ảnh thường thấy trong thơ ca trung đại. Thêm vào đó, việc sử dụng từ láy “lớp lớp” ở đầu câu thơ cùng với động từ “đùn” đã gợi nên khung cảnh một bầu trời đầy những lớp mây, tất cả ánh lên như “núi bạc”. Và để rồi, trên nền trời ấy, tác giả dùng bút pháp chấm phá, điểm lên trên nó hình ảnh cánh chim chiều – “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Câu thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” có nhiều cách hiểu. Đó có thể cánh chim chiều kéo buổi chiều buông xuống nhưng nó cũng có thể là sức nặng của buổi chiều đang đè nặng lên cánh chim làm nó nghiêng lại. Nhưng dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ cũng không đơn thuần chỉ không gian mà nó còn gợi lên cả nhịp bước của thời gian – đó chính là buổi chiều tà bởi lẽ hình ảnh cánh chim là thi liệu cổ điển, nó luôn gợi đến cảnh chiều tà. Và để rồi, hai câu thơ đã vẽ khung cảnh một bức tranh thiên nhiên buổi chiều hùng vĩ, êm đềm. Không dừng lại ở đó, hai câu thơ cuối của khổ thơ đã thể hiện một cách sâu sắc, chân thực nỗi niềm, tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Lòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhá Có thể nói, hai câu thơ đã diễn tả trực tiếp nỗi niềm tâm trạng, cảm xúc của tác giả. “Lòng quê” chính là nỗi nhớ quê hương, đất nước. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ “dờn dợn” từng cơn, từng đợt tuôn trào ra. Dường như, nỗi nhớ ấy của tác giả như tuôn trào, bao trùm khắp cả dòng nước đang chảy trôi kia. Và đặc biệt, nỗi nhớ nhà, nhớ quê ấy như luôn thường trực trong trái tim, trong nỗi lòng của tác giả bởi lẽ, với tác giả “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Tóm lại, bài thơ “Tràng giang” nói chung và khổ thơ cuối của bài thơ nói riêng đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về nỗi lòng của tác giả đối với quê hương, đất nước. Đồng thời, qua đó cũng cho ta thấy tài năng của Huy Cận trong việc sử dụng và sáng tác các hình ảnh thơ cổ điển. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang 💧 Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang 2 Khổ Đầu – Mẫu 26 Bài văn phân tích Tràng giang 2 khổ đầu dưới đây sẽ giúp các em học sinh đi sâu phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ. Phong trào thơ mới chứng kiến sự đột phá của rất nhiều thi sĩ nổi tiếng với hàng ngàn tác phẩm tuyệt vời. Trong đó, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm “Tràng Giang” được sáng tác dưới ngòi bút của Huy Cận. Với sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, cùng câu từ đơn giản nhưng tinh tế tác giả thành công khắc họa hình ảnh mông mông của thiên nhiên hùng vĩ, qua đó cũng thể hiện nỗi niềm u buồn chất chứa, sự bế tắc của một kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nổi bật phải kể đến 2 khổ thơ đầu đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên nhà thơ đã cho người đọc thấy được một con sông chất chứa bao nhiêu nỗi buồn sâu thẳm “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Một loạt từ ngữ “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” gợi cảm giác thê lương cùng từ láy “điệp điệp”, “song song” càng làm nỗi buồn trở nên mênh mông vô tận của tác giả trong thời thế có nhiều bất công. Tác giả mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và đặc biệt là hình ảnh “củi khô” trôi một mình để người đọc thấy rõ sự đơn độc. Nét chấm phá cổ điển xen lẫn nét hiện đại được thể hiện rõ nét, gợi tả câu thơ đầy ám ảnh với một dòng sông dài, mang nét đẹp trầm tĩnh, u buồn khiến người đọc cảm thấy thật thê lương. Theo quy luật thì thuyền và nước là hai thứ không thể nào tách rời nhau, thuyền nhờ nước mới có thể trôi. Thế nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, câu thơ là một uẩn khúc hay là một sự chia lìa không hề báo trước? Dù là ý nghĩa nào thì người nghe cũng cảm thấy quạnh lòng xót xa. Trong khung cảnh mênh mông sông nước có một nỗi buồn đến tận cùng. Hình ảnh “củi khô” xuất hiện cuối câu thơ là điểm nhấn của khổ thơ gợi lên sự bé nhỏ, mỏng manh, đơn chiếc, trôi dạt khắp nơi mặc cho dòng nước đưa đẩy. Câu thơ như muốn nói về một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, lận đận giữa cuộc sống với bộn bề lo toan, tính toán. Dường như nỗi hiu quạnh đó được Huy Cận tăng lên gấp bội trong khổ thơ thứ 2 “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cô liêu” Một làng quê thiếu sức sống hiện lên với cồn cỏ lơ thơ, hiu quạnh trước gió, khiến người đọc không khỏi nặng lòng khi nghĩ đến. Ngay cả phiên chợ chiều vốn nơi xa cũng không thể nghe thấy tiếng ồn ào, hay có khi nào phiên chợ đó cũng vắng lặng đến buồn hiu. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu, nó là một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa. Chẳng biết là tác giả đang hỏi người hay là đang tự hỏi bản thân mình. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không tiếng động, không bóng người sao thật chua xót quá. Sự mênh mông vô định của thiên nhiên được tác giả đặc tả bằng hình ảnh trời và sông. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lúc này chúng ta có thể thấy được nét tài tình và độc đáo cả thi sĩ khi lấy chiều cao để đo chiều sâu. Giữ không gian sông nước mênh mông và tác giả kết thúc đoạn thơ bằng một chữ “cô liêu” dường như đã lột tả hết nỗi buồn rầu, cô đơn từ sâu thẳm tâm hồn mà không biết ngỏ cùng ai. Khép lại hai khổ thơ đầu ta như thấy được giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nỗi sầu nhân thế của tác giả dừng như chiếm trọn tâm trí. Có lẽ đó chính là lý do tại sao dù ra đời đã lâu nhưng Tràng Giang vẫn không bị bụi thời gian phủ mờ nó vẫn còn sáng mãi trong lòng bạn đọc yêu thơ nhiều thế hệ. Tiếp tục tham khảo 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌹 Văn Mẫu Hay Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 – Mẫu 27 Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 3 4 giúp các em học sinh nắm được ý nghĩa của đoạn thơ. Huy Cận tưởng như là người lữ khách với niềm đam mê bất tận về một vẻ đẹp buồn âu sầu ảo não, vậy nên thi nhân đã không ngại bỏ buồn vào không gian, lượm lặt từ những chất thơ tế vi mỏng manh của tạo vật để làm nên những bức tranh không gian mang nỗi hoài cổ của chính mình. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang là những vần điệu mang đậm nét âm hưởng ấy. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hình ảnh cánh bèo từ bao lâu nay gửi mình vào trong thơ luôn là hình ảnh gợi về sự mỏng manh, vô định và rẻ rúm của kiếp người. Trên điệu chảy nhịp trôi chầm chậm của câu thơ này, một lần nữa xúc cảm ấy lại được gợi về. Những hàng bèo nối đuôi nhau, cứ chảy trôi bất tận, dòng sông hay cũng chính là dòng đời vô định chảy trôi khiến cho kiếp người bé nhỏ cảm thấy bơ vơ, bế tắc và mất phương hướng. câu thơ mang âm hưởng buồn man mác, một nỗi buồn đậm chất Huy Cận. Nhất là hình giữa dòng mênh mông vô bờ ấy, một chuyến đò ngang gợi niềm thân mật, gợi sự kết nối cũng không xuất hiện dù chỉ thoáng qua, mà còn lại đây chỉ đơn côi với những cánh bèo vô thức trôi. Chính vì thế không gian sông nước vốn dĩ mênh mông, vốn dĩ đã làm nên những biển buồn bất tận bỏ vào lòng người, nhưng nay không chỉ là sức gợi vô tận về nỗi buồn mà còn mang một chiều sâu khác về sự đứt gãy nối kết. Biểu tượng cây cầu bao giờ cũng là điểm tựa để cho người đọc cảm nhận mãnh liệt nhất về sự gắn kết, của sự gắn bó và nối tiếp. Thế nhưng ở đây, nó không xuất hiện phải chăng là một chỉ dấu ngầm cho sự đứt gãy kết nối, đứt gãy những mắt xích gắn kết, hay cũng là một chỉ dấu để độc giả cảm nhận được về sự cô đơn trống vắng hoang hoải đến bất tận trong tâm hồn con người. Còn đò ngang là nơi bấu víu, là nơi con người tìm đến để có thể vượt qua cách trở về không gian mà đến gần với nhau hơn, nhưng giờ đây ngay cả điểm tựa duy nhất ấy cũng đã biến mất không dấu vết. Trả lại cho nhân vật trữ tình chỉ là những bãi trống hoang hoải cô liêu của bờ xanh bãi vàng, ta bỗng nhớ đến hình ảnh những bãi xanh hun hút bận tận không cùng trong câu thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. Các tính từ, các từ láy “lặng lẽ” một lần nữa nhấn thêm vào sự trống vắng, mênh mông và cô đơn vời vợi của tâm hồn, của lòng người. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Khổ thơ cuối có thể coi là tuyệt bút tuyệt hoa mà Huy Cận đặc dùng. Mây cao núi bạc, khung cảnh mới thật hùng vĩ, tráng lệ làm sao, đó là những chất liệu mang màu cổ điển được họa sĩ Huy Cận vờn phối cho bức tranh chiều tà nhuốm màu buồn man mác của chính mình. Khiến cho chỉ một câu thơ ngắn, nhưng lại gợi về thăm thẳm những mênh mông và rợn ngợp từ quá khứ đuổi về hiện tại, từ cổ điển gọi về hiện đại. Cánh chim gọi buổi chiều, tín hiệu ấy dường như không còn xa lạ nữa, thế nhưng vào trong thơ Huy Cận nó vẫn chở những xúc cảm của riêng nhà thơ vào trong đó. Tưởng như cánh chim nhỏ bé và đơn côi ấy, đã chờ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh của mình, tưởng như đã chở cả cái không cùng và cô đơn vời vợi của kiếp người ở trên đó. Dấu hai chấm tưởng như một sự ngăn cánh, để làm điểm nhấn cho độ nghiêng rất nghệ mà cũng rất tinh của cánh chim nhỏ, hay có thể là dụng ý của nhà thơ để cả câu thơ nâng đỡ cả điệu hồn của thi nhân gửi vào đó. Hai câu thơ cuối, đứng trước thiên nhiên rộng lớn mênh mông, thi nhân bỗng trào dâng một nỗi nhớ nhà khôn nguôi, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ luôn trở đi trở lại như một lời khấn khứa, như một khắc khoải khôn nguôi xuất phát từ tấm lòng của một cái tôi đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu vắng quê hương. Hoàng hôn thường là mốc thời gian gợi nhớ gợi buồn, nhưng ở đây không gian ấy chỉ đơn thuần là ngoại giới, còn trong nội tâm nhà thơ, thì toàn bộ tâm hồn đã hướng trọn về tình quê mất rồi. Lấy cái không để gợi về cái có, để gợi về nỗi lòng, để khơi gợi sự đồng điệu đó chính là cái tài trong bút thơ Huy Cận. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang, dường như là những mạch chảy mạnh mẽ nhất của tâm trạng thi nhân, tưởng như nếu lắng mình nghiêng lòng xuống trang sách có thể cảm được điệu tâm hồn buồn và cô đơn của cái tôi thơ Mới chở mang trong đó. Tiếp theo đón đọc 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang 2 Khổ Cuối – Mẫu 28 Bài văn phân tích Tràng giang 2 khổ cuối dưới đây sẽ giúp các em học sinh chắt lọc cho mình những ý văn hay và sinh động. Độc giả biết đến hồn thơ của Huy Cận trước cách mạng là một hồn thơ sầu, buồn trước nỗi sầu nhân thế. Đến với bài thơ “Tràng giang”, ta lại bắt gặp một nỗi buồn, cô đơn sâu sắc của tác giả trước cuộc đời. Đặc biệt, nỗi sầu buồn ấy được làm nổi bật trong hai khổ thơ cuối của bài thơ. Khổ thơ thứ 3 đã gợi ra hình ảnh một kiếp người nhỏ bé, vô định, chênh vênh trước dòng đời mang nét cổ kính “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh “bèo dạt” như gợi bão tố của cuộc đời đang xô đẩy số phận một con người nhỏ bé như hình ảnh bèo cô độc, bị xô đẩy. Con người như cùng bơ vơ trước cuộc đời. Điệp từ “không” nhấn mạnh sự trống vắng, thiếu hụt, mất mát. Nó góp phần phủ định hiệu quả. Dòng sông là bức tường ngăn cách, phương tiện đi qua nó là “đò”, “cầu”, là cái khiến con người xóa bớt sự cô đơn. Nhưng ở đầy, đã có sự phủ định tuyệt đối “không cầu”, “không đò”, đó lại là sự khẳng định không có bất kì tín hiệu, mối liên hệ nào để con người gần gũi nhau, giá trị sống của con người đang bị hoàn toàn tiêu diệt. Nếu bị tước đoạt những thứ giúp con người đến với nhau thì không cuộc sống không có giá trị. Phương tiện giúp con người xóa đi sự xa cách mà ở hoàn cảnh này lại hoàn toàn không có. Sự sống của con người dường như bị tiêu diệt, vì sống giữa cuộc đời mà không có sự liên hệ, cảm thông hay chia sẻ. Hình ảnh “bờ xanh’, “bãi vàng” là hai sự vật vốn dĩ đứng cạnh nhau mà lại không có một mối liên hệ ràng buộc nào. “Lặng lẽ” chỉ hoạt động âm thầm, kín đáo, riêng lẻ. Tác giả đã gợi ra bức tranh cảnh vật hoang vắng, thiếu hơi ấm tình người. Khổ thơ thứ 4 gợi ra cả một bầu tâm sự của tác giả “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều saLòng quê dợn dợn vờn con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” mang hình ảnh kì vĩ, mang tầm vóc lớn. Nhà thơ đã lựa chọn sử dụng những hình ảnh lớn lao, kì vĩ, mượn từ “đùn” của nhà thơ Đường, đó là sự chuyển động từ bên trong đẩy ra bên ngoài từng lớp mây trắng cứ bung nở, tỏa ra thành một núi bạc. “Lớp lớp” là nhiều, chồng lên nhau, không có điểm kết thúc. Hình ảnh mây trắng hết lớp này đến lớp khác như một cây bút bông nở lên trên trời cao. Mây trông như những ngọn núi bạc, mây là núi, núi tựa mây. Hình ảnh “cánh chim” là một công thức ước lệ trong thơ cổ, lấy cánh chim để gọi buổi chiều, nói hộ tâm trạng con người. Hình ảnh “cánh chim” gợi sự sống cho cảnh vật, những cánh chim nhỏ lại nghiêng đi, không chịu được sức nặng của bóng chiều đang xa xuống, tạo sự đối lập giữa cảnh bầu trời cao rộng hùng vĩ ở câu trên và cánh chim nhỏ bé ở câu dưới. Câu thơ cuối cùng “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là tâm sự nhớ quê hương mà tác giả gửi gắm. Cách thể hiện nỗi nhớ nhà không cần có yếu tố gợi nhớ mà vẫn nhớ vì nỗi nhớ luôn thường trực ở trong tâm hồn thi sĩ. Huy Cận đứng trước dòng sông của đất nước, thể hiện tâm sự của nhà thơ đối với đất nước. Người đọc nhận ra được sự cô độc của tác giả do mất quê hương, đây là một tâm trạng thầm kín, thể hiện tình yêu nước của nhà thơ. “Tràng giang” là một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng buồn, đặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ. Tình yêu ấy mang tâm sự thầm kín của tác giả. Trong đó còn có sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, xứng đáng là bài thơ hay nhất của tập “Lửa thiêng”. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích 2 Khổ Cuối Bài Tràng Giang 🌼 13 Mẫu Khổ 3 4 Hay Trên đây là tuyển tập những mẫu bài phân tích về tác phẩm Tràng giang của nhà thơ Huy Cận! Cảm ơn bạn đã tham khảo tại
Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang ❤️️ 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Với Những Gợi Ý Phân Tích Giàu Ý Nghĩa. Dàn Ý Phân Tích Khổ 4 Tràng GiangPhân Tích Khổ 4 Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3Phân Tích Tràng Giang Khổ 4 Ngắn Nhất – Mẫu 4Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 5Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Facebook – Mẫu 6Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 4 – Mẫu 7Bài Phân Tích Khổ 1 4 Tràng Giang Chọn Lọc – Mẫu 8Phân Tích Khổ 1 Và 4 Bài Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 9Phân Tích Khổ 3 4 Tràng Giang Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 10Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Chi Tiết – Mẫu 11Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Hay Và Đầy Đủ – Mẫu 12Phân Tích 4 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang – Mẫu 13Phân Tích 4 Khổ Thơ Cuối Bài Tràng Giang – Mẫu 14 Lập dàn ý phân tích khổ 4 Tràng giang sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm chính để triển khai bài viết. Tham khảo mẫu phân tích khổ 4 Tràng giang dàn ý ngắn gọn dưới đây I. Mở bài Giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang II. Thân bài Phân tích khổ thơ cuối bài Tràng Giang câu đầu Màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơHình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờHình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặngHình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô đọng của tác giả câu cuối Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiênNỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bậtKhát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước III. Kết bài Nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài Tràng giang Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Tràng Giang ☔ 12 Mẫu Tóm Tắt Hay Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1 Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 4 Tràng giang Huy Cận dưới đây sẽ giúp các em học sinh có được những định hướng viết bài cụ thể nhất. Đọc thơ của Huy Cận người đọc cảm nhận rõ được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu nặng trong lòng ông. Bằng tình yêu nồng nàn và luôn cháy trong tim ông luôn hướng về quê hương đất nước dù hiện tại ông đang đứng trên mảnh đất quê hương. Khổ cuối bài Tràng giang là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tác giả với tình yêu quê hương đất nước yêu cảnh sắc quê hương vì thế mà bức tranh thiên nhiên vẫn tiếp tục được mở ra với những chi tiết mới “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Câu thơ đầu đã gợi mở ra cảnh phía chân trời xa, những đám mây trắng chồng xếp lên nhau trùng trùng điệp điệp dưới phản chiếu ánh dương lấp lánh như núi bạc. Huy Cận học ý thơ của Đỗ Phủ qua bản dịch nghĩa của Nguyễn Công Trứ “Mặt đất mây đùn từ ải xa.” Đã phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng đẹp một cách tráng lệ lung linh. Nhưng đến câu thơ thứ hai “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Thơ xưa khi nói đến chiều thường buồn điểm xuyết trên nền không gian là cánh chim về tổ. Huy Cận vẽ cánh chim trao nghiêng đặt trong dấu hai chấm như để nhấn mạnh cả bóng chiều như rơi xuống góp phần gợi nỗi buồn da diết về sự bé nhỏ của con người giữa cuộc đời. Không gian rộng lớn bao la nhưng lại làm cánh chim nghiêng ngả với đôi cánh nhỏ của mình. Nhưng trong câu thơ trên Huy Cận có nhắc đến thời điểm “bóng chiều” là là khoảng thời gian đặc trưng cho tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương da diết của những người con xa quê chính vì thế mà hai câu tiếp theo đã bộc lộ rõ tâm trạng ấy “Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Lần đầu tiên thi sĩ bộc lộ tâm trạng nỗi nhớ quê hương được hiện lên từ khói hoàng hôn, từ con nước dợn dợn. Nó đã gợi ta nghĩ đến cảm giác đang rợn lên trong tâm trí con người hay những con sóng nhấp nhô trên sóng nước rất khó phân định chỉ biết qua từ “dợn dợn” sóng nước, sóng lòng đang hòa quyện vào nhau mênh mang trên dòng sông. Chỉ biết tấm lòng thương nhớ quê hương không chỉ ở trong ý thức mà đã xâm lấn cảm giác của con người thấm thía. Câu thứ 4 “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” tính đối thoại với một tình cảm quan niệm thơ đi trước cho ta nghĩ đến tiếng thơ của Thôi Hiệu “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Với Huy Cận không cần khói sóng nào cần đến tác dụng của ngoại cảnh mà vẫn nhớ quê hương, nỗi niềm thương nhớ luôn thường trực trong lòng người. Đó là cách bày tỏ tình cảm thật sâu sắc. Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan “Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia” Đứng trên quê hương, đất nước mà vẫn nhớ quê hương đất nước. Phải chăng đó là nỗi buồn sông núi của một trí thức yêu nước sống trong thân phận vong quốc nô, nỗi buồn của một thế hệ thanh niên yêu nước sống dưới thời Pháp đương thời. Bức tranh thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ đẹp kì vĩ mĩ lệ của khung cảnh trời chiều đậm màu sắc nhưng bức tranh quá rộng lớn làm đầy lên nỗi cô đơn nhớ thương khắc khoải của nhân vật trữ tình. Tràng giang là tiếng buồn của hồn thơ Huy Cận được gợi lên từ sự đối lập giữa không gian mênh mông cao rộng với nhỏ bé mong manh. Nỗi buồn không hoàn toàn vô cớ đó là nỗi buồn thương về kiếp người cuộc đời về quê hương đất nước. Nỗi buồn gắn với quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ mới cái đẹp sánh đôi với cái buồn. Đó cũng là nỗi buồn của thế hệ thanh niên mà trong thơ của Huy Cận thường đem nỗi buồn vào vũ trụ bao la. Bài thơ còn là sự kết hợp hài hào giữa yếu tố cổ điển và hiện đại với các nghệ thuật thất ngôn trường thiên, phép đối ngẫu, thi tứ, bút pháp tả cảnh ngụ tình lấy điểm tả diện đã làm nổi bật khổ cuối của bài thơ. Tuy chỉ là một khổ thơ nhưng khổ thơ cuối lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bộc lộ tâm trạng của Huy Cận khi đứng trên quê hương ngắm nhìn cảnh đẹp kì vĩ trên đất nước mình mà trong lòng không khỏi bồi hồi xúc động từ đó bộ lộ tình yêu thiên nhiên yêu quê hương kín đáo mà cũng tha thiết của tác giả. Khi ta phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang dường như nó giúp khơi gợi trong chúng ta tình yêu quê hương đất nước tha thiết, yêu cảnh sắc quê hương mình từ đó mà dạy chúng ta cách trân trọng cuộc sống, trân trọng những gì đang có. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Bài Tràng Giang Chuẩn Nhất 🍀 Mẫu Nghị Luận Hay Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2 Đón đọc bài văn mẫu phân tích khổ 4 Tràng giang hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây với những ý văn đặc sắc. Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại được nhắc đến như là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Trước không gian ấy, ông thường bày tỏ cảm xúc buồn sầu đến mức ảo não, tuy nhiên ẩn sau nỗi sầu đó là khát khao tình đời, tình người. “Tràng giang” là một bài thơ như thế. Qua chặng đường ba khổ thơ đầu thể hiện tâm trạng buồn sầu của nhà thơ trước không gian bao la rợn ngợp, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc thấy được tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tràng giang được sáng tác vào năm 1939, cảm hứng được gợi từ cảnh thiên nhiên bao la của sông Hồng. Bài thơ là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất được in trong tập “Lửa thiêng” 1940. Xuyên suốt ba khổ thơ đầu là nỗi buồn của Huy Cận từ nỗi sầu khi đối diện trước không gian mênh mông đến tâm trạng cô đơn trước bức tranh thiên nhiên được mở rộng về nhiều phía và sau đó là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. Vậy nhưng, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc lại thấy được niềm khao khát gắn kết, tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả. Ở đây, cái nhìn của Huy Cận như hướng lên trời cao để cảm nhận bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Đám mây – cánh chim vốn là motip quen thuộc trong thơ ca khi nói về trời chiều như “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” Bà Huyện Thanh Quan hay “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” Chiều tối – Hồ Chí Minh để gợi nỗi buồn xa Cận cũng đã đưa những hình ảnh quen thuộc đó vào “Tràng giang” càng nhấn mạnh hơn bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ nhiên hiện lên với Mây cao đùn núi bạc, với cảnh huy hoàng, tráng lệ biết bao. Thế nhưng, hình ảnh đó dường như cũng khắc họa tâm trạng buồn bã, cô đơn của con người trước không gian bao la rộng lớn bởi chim thì “mỏi” còn mây thì “trôi nhẹ” lững lờ. Không chỉ vậy, hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa đã khéo léo vẽ ra sự đối lập giữa cái nhỏ bé – cái bao la. Lời thơ giải thích phải chăng nhấn mạnh chỉ một cánh chim nhỏ nghiêng cánh cũng khiến cho bóng chiều “sa xuống” . Câu thơ đã khắc họa cảnh thiên nhiên rộng hơn, tráng lệ và hùng vĩ hơn nhưng cũng buồn hơn. Không chỉ thể hiện cảm xúc buồn sầu một cách gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên, mà ở đây nỗi khát khao tình đời, tình người của Huy Cận như bật ra một cách trực tiếp Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Từ láy dợn dợn đã miêu tả cảm xúc dâng trào mãnh liệt giống như sóng nước, động từ “vời” dường như nhấn mạnh nỗi cồn cào, hụt hẫng, chới với trong cảm xúc đồng nhất với ngoại cảnh. Bởi vậy lúc này, hồn thơ Huy Cận tha thiết nỗi “Nhớ nhà”. Đó là nỗi nhớ về nơi chôn rau cắt rốn hay là đang nhớ về đất nước, tổ quốc mình? Đây là nỗi nhớ kín đáo, thể hiện nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên dưới thời thuộc Pháp, sống trên đất nước mình mà luôn có cảm giác bơ vơ, lạc lõng. Câu thơ cuối “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ ý thơ quen thuộc trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu”Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai Nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà – tức là nỗi nhớ nhà được gợi lên từ ngoại cảnh, thì Huy Cận nhớ nhà mà không cần đên hoàng hôn – nỗi nhớ nhà không phụ thuộc vào ngoại cảnh, do đó nó càng mãnh liệt, thấm thía hơn bao giờ hết. Có thể nói, khổ thơ kết bài “Tràng Giang” đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ dành cho quê hương đất nước. Càng thấm thía nỗi cô đơn, hiu quạnh, con người càng khát khao tình đời, tình người. Bởi vậy, đúng như Xuân Diệu từng cho rằng “đây là bài thơ dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận”. Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Mở Bài Tràng Giang 🌹 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3 Dưới đây chia sẻ bài phân tích khổ 4 Tràng giang ngắn gọn để các em học sinh tham khảo và chuẩn bị cho bài viết trên lớp. Cùng với các nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính,… Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới nói riêng và thơ ca hiện đại Việt Nam nói chung. Mỗi tác phẩm của mình, ông đề gửi vào trong đó nỗi buồn nhân thế về cảnh ngộ của non sông đất nước và số phận con người. Huy Cận còn là người yêu thơ ca Việt Nam, yêu thơ Đường và chịu ảnh hưởng của thơ ca Pháp, phong cách và đặc điểm sáng tác này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tràng giang”. Nếu như trong ba khổ thơ đầu của bài thơ Tràng giang, mỗi câu mỗi chữ mỗi hình ảnh đều như gợi lên trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên tha thiết tình người, mang nặng nỗi sầu của thi nhân trước cái vắng lặng của cảnh vật, nỗi cô đơn của con người thì đến khổ thơ cuối cùng của bài thơ nỗi buồn ấy như lan tỏa khắp mọi không gian, thời gian và đặc biệt, chúng ta sẽ nhận thấy tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng của tác giả dường như được hiện rõ trên từng câu chữ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ với những hình thơ cổ điển, giàu tính ước lệ, tượng trưng thường thấy trong thơ ca cổ điển giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về nỗi buồn của tác giả trước khung cảnh chiều tà. Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Câu thơ mở đầu khổ thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, lớn lao vừa gần gũi, thân quen. Bức tranh ấy được vẽ nên từ hình ảnh những đám mây trời – một hình ảnh thường thấy trong thơ ca trung đại. Thêm vào đó, việc sử dụng từ láy “lớp lớp” ở đầu câu thơ cùng với động từ “đùn” đã gợi nên khung cảnh một bầu trời đầy những lớp mây, tất cả ánh lên như “núi bạc”. Và để rồi, trên nền trời ấy, tác giả dùng bút pháp chấm phá, điểm lên trên nó hình ảnh cánh chim chiều – “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Câu thơ “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” có nhiều cách hiểu. Đó có thể cánh chim chiều kéo buổi chiều buông xuống nhưng nó cũng có thể là sức nặng của buổi chiều đang đè nặng lên cánh chim làm nó nghiêng lại. Nhưng dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ cũng không đơn thuần chỉ không gian mà nó còn gợi lên cả nhịp bước của thời gian – đó chính là buổi chiều tà bởi lẽ hình ảnh cánh chim là thi liệu cổ điển, nó luôn gợi đến cảnh chiều tà. Và để rồi, hai câu thơ đã vẽ khung cảnh một bức tranh thiên nhiên buổi chiều hùng vĩ, êm đềm. Không dừng lại ở đó, hai câu thơ cuối của khổ thơ đã thể hiện một cách sâu sắc, chân thực nỗi niềm, tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Lòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhá Có thể nói, hai câu thơ đã diễn tả trực tiếp nỗi niềm tâm trạng, cảm xúc của tác giả. “Lòng quê” chính là nỗi nhớ quê hương, đất nước. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ “dờn dợn” từng cơn, từng đợt tuôn trào ra. Dường như, nỗi nhớ ấy của tác giả như tuôn trào, bao trùm khắp cả dòng nước đang chảy trôi kia. Và đặc biệt, nỗi nhớ nhà, nhớ quê ấy như luôn thường trực trong trái tim, trong nỗi lòng của tác giả bởi lẽ, với tác giả “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Tóm lại, bài thơ “Tràng giang” nói chung và khổ thơ cuối của bài thơ nói riêng đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn về nỗi lòng của tác giả đối với quê hương, đất nước. Đồng thời, qua đó cũng cho ta thấy tài năng của Huy Cận trong việc sử dụng và sáng tác các hình ảnh thơ cổ điển. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 4 Ngắn Nhất – Mẫu 4 Chia sẻ bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 4 ngắn nhất dưới đây với những ý văn cô đọng và hàm súc nội dung. Huy Cận thơ của ông mang nhiều nỗi buồn cảnh vật và thế sự. Nỗi buồn đó về những con người, kiếp người và về quê hương đất nước. Bài thơ Tràng Giang chính là nơi tác giả bài thơ nhiều tình cảm của bản thân với quê hương, đất nước. Đặc biệt trong khổ cuối thể hiện nỗi sầu của thi nhân và nhân thế. Trong ba khổ đầu, tác giả dùng biện pháp tả cảnh ngụ tình để mô tả những con người nhỏ nhoi, thấp cổ bé họng thì trong khổ cuối, ông đã hòa chung sự cô độc bản thân vào nỗi nhớ quê nhà nhớ quê lên tầng thiên nhiên cao, rộng lớn hơn nhiều Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Một câu thơ tưởng như đơn giản nhưng khiến người đọc choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây. Từ láy lớp lớp khiến cho chúng ta có cảm giác mây như dày, tầng lớp và núi mây có màu bàng bạc, huyền ảo. Huy Cận còn lấy cảm hứng từ trong thơ Đỗ Phủ vào bài thơ. Các cụm từ đùn và lớp lớp khiến không gian như rộng và cao hơn rất nhiều. Điều này khiến nhân vật trữ tình đã cô độc nay lại còn nhỏ nhoi trước thiên nhiên. Hình ảnh núi mây Huy Cận còn khiến độc giả có sự liên tưởng về nỗi buồn trong lòng Huy Cận xếp chồng lớp lên nhau đó là tâm trạng sầu thảm của chính tác giả. Giữa không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn còn có cánh chim nhỏ bé Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Thơ Huy Cận cánh chim không thật sự tĩnh lặng mà nó đang đập cánh chao nghiêng trong một không gian thiên nhiên vô tận. Hai câu thơ cuối Huy Cận cảm thấy cô độc, lẻ loi và nhớ nhà da diết Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Dợn dợn từ ngữ chỉ có trong thơ của Huy Cận, ông lại sáng tạo ra một từ láy riêng cho mình. Hai thanh nặng như là nỗi buồn của tác giả vào hố sâu tuyệt vọng. Từ dợn dợn tựa như những con sóng dợn buồn trong lòng nhà thơ Huy Cận. Câu thơ cuối của Tràng giang dựa trên nền thơ của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê còn Huy Cận lại phát triển thêm ý thơ đó là “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, đối với ông tình yêu quê hương, đất nước trong lòng ông lúc nào cũng có sẵn mà không cần một thứ xúc tác nào khác. Trong Tràng Giang khổ thơ cuối đặc biệt với sự u ám và thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương của chính tác giả. Qua bài thơ tác giả mong muốn cuộc sống này trở nên ý nghĩa và tốt đẹp. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Kết Bài Tràng Giang 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Học Sinh Giỏi – Mẫu 5 Tài liệu văn phân tích khổ 4 Tràng giang học sinh giỏi dưới đây sẽ mang đến cho bạn những phân tích sâu sắc và giàu ý nghĩa. Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi cuống quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn Tràng giang của ông. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn” thế hệ mang tính thời đại, một nỗi buồn không tìm ra lối thoát nó như kéo dài triền miên, nó như dàn trải theo mênh mông vô địch của sông nước, thì tới khổ thơ cuối tâm trạng ấy được nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn của buổi chiều tàn. Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa Ở dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy không gì vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng cũng không gì buồn bằng cái buổi ngày tàn của“bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy trong thơ Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình quả núi và đằng sau hình quả núi ấy là một mặt trời chói lọi sắp tắt khiến cho núi mây trở thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm có khi hoàng hôn đang lụi dần, không gian dường như có một sự vận động lặng lẽ mây cứ đùn lên mãi chiếm lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cũng đầy nỗi buồn rợn ngợp. Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong cái bể trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn nương thân da diết nhớ quê hương Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ “trôi nổi mông lung lạc loài vô định”, một cành củi khô bập bềnh trôi trên sông củi một cành khô lạc mấy dòng, một đám bèo xanh trôi nổi trên sông bèo dạt về đâu hàng nối hàng. Với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn lạc loài. Đó là một cánh chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa vắng. Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá, nỗi buồn ở đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa. Nếu như câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng một tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” chứ không phải là “xa”. Phải chăng cái nỗi buồn cô đơn cùng nỗi buồn “sầu nhân thế” đó càng gợi lên trong nỗi buồn của nhà thơ. Nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô tận của không gian đối lập với kiếp người. Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Chuyển sang câu thơ thứ ba đột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải là ánh mắt nhìn vào mình, nhìn theo đến hun hút vào “tràng giang” mà chính là cõi lòng nhìn vào mình rồi nhìn về phía chân trời xa xôi. “Lòng quê” đó là nỗi lòng nhớ quê hương. Và cũng có nghĩa diễn nôm na là của người trí thức tây học này vốn đã bị thị thành hóa giờ đây nó đang trở lại thành tấm lòng của người cố hương giàu tình làng nghĩa xóm. Hai nghĩa trên nó sẽ định ra cho sự giải thoát cô đơn. Phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về chính quê hương mình. Hai tiếng “dợn dợn” gợi lên muôn nhịp sóng sóng nước, sóng lòng diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê cố hương Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu thời Đường cũng là tâm tình quê của Huy Cận. Với Huy Cận lòng quê đã nhớ quê sẵn. Đó là nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre. Vì thế không có một sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm lòng ấy vẫn đăm đắm hướng về quê nhà để hi vọng kiếm một chút niềm thân mật ở làng quê sông nước, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Mới đọc bài thơ Tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. Nó rất hoang vắng, nó độc thoại với chính nó. Thế nhưng bốn dòng thơ cuối bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị đô hộ càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng “ảo não” bấy nhiêu. Phải chăng ai đó đã nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất, tiềm ẩn nhất với đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang đã khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu Tổ quốc, tình yêu giang sơn đất nước. Tiếp theo đón đọc 🌟 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích Khổ 4 Tràng Giang Facebook – Mẫu 6 Chia sẻ bài phân tích khổ 4 Tràng giang Facebook dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình gợi ý làm bài phong phú hơn. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc. Bài thơ “Tràng giang” được trích từ tập “Lửa Thiêng” thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang. Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc….Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Đây là khổ thơ kết tinh của làng quê “dợn dợn vời con nước” của Huy Cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha với quê hương, đất nước. Hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Cách cảm nhận của nhà thơ hết sức tinh tế tạo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều “lớp lớp mây” chồng xếp lên nhau thành núi mây trắng trông như được dát bạc. Từ “đùn” rất giàu giá trị tạo hình gợi nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ “Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùn cửa ải xa” Một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà “Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch “Cửa đầu vọng minh nguyệt – Đê đầu tư cố hương”? Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu. Thế nhưng Thôi Hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. Còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! Từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng! Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lòng mình trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương , đất nước tha thiết. Là khổ thơ xuất sắc nhất trong tác phẩm, và cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất nét tâm trạng của một chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Thế mới hiểu vì sao người ta nói Huy Cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. Nhờ kết hợp những biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách thơ mới tài năng. Và Huy Cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn không thể tách rời với văn học Việt Nam. Mời bạn khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 1 Tràng Giang 💕 Những Bài Phân Tích Hay Phân Tích Tràng Giang Khổ 1 4 – Mẫu 7 Hai khổ thơ mở đầu và kết thúc Tràng giang được đánh giá là những dòng thơ hay nhất trong tác phẩm. Tham khảo bài phân tích Tràng giang khổ 1 4 dưới đây Cù Huy Cận 1919-2005, bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như thế. Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp thể hiện sâu kín nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương. Nhan đề “Tràng giang”, là một nhan đề hay khi gợi mở ra không gian rộng lớn bằng cách điệp vần “ang”, tạo cảm giác kéo dài, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất, đồng thời nhan đề hán việt này cũng mang đến cho tác phẩm sắc thái cổ kính, trầm lặng, chất chứa nhiều tâm tư, nỗi buồn sâu kín. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng trời sông nước quá đỗi rộng lớn, mà con người lại chỉ như hạt cát nhỏ, lạc lõng, chơ vơ, không biết phải đi đâu về đâu, không biết bản thân tồn tại, trong trời đất này có nghĩa lý gì. Điều đó khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh đầy đau thương của đất nước lúc bấy giờ, Huy Cận bản thân là một trí thức tiểu tư sản, nhưng trước thế sự rối ren lại trở nên bế tắc, không thể tìm thấy con đường sáng, và khi đứng trước sông nước mênh mông, ông lại càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Điều đó thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi mà cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại lấy thiên nhiên mà bộc lộ những nỗi niềm sâu kín, đem đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ, hấp dẫn. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Ở khổ thơ đầu tiên ta thấy mở ra là hình ảnh một bức tranh sông nước buồn vắng và ảm đạm, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ cũng được thể hiện một cách rõ nét. Hình ảnh “tràng giang” tức là một con sông vừa rộng lại vừa dài, tưởng chừng như kéo dài đến vô tận, thế nhưng lòng sông lại hết sức yên tĩnh, dòng sông lớn thế mà sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt tựa như cảnh “dòng nước buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Không chỉ vậy cái buồn còn được bộc lộ một cách trực tiếp và rõ ràng trong mấy từ “buồn điệp điệp”, tức là cái buồn nỗi buồn, chồng chất lên nhau lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm thầm, trông có vẻ mờ nhạt nhưng thực tế lại sâu sắc vô cùng. Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, đó là một cảnh tượng gợi ra nhiều nỗi cô đơn, thuyền qua thuyền lại biết bao lần, nhưng chưa chắc một lần thuyền hiểu được nỗi lòng sông, nỗi lòng con nước. Vốn dĩ thuyền – nước hô ứng, phối hợp với nhau ấy nhưng khi vào thơ Huy Cận dường như chúng lại chẳng giao hòa, cứ song song với nhau, rồi “thuyền về nước lại” càng gợi sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót. Thêm nữa từng con thuyền ấy lại vướng biết bao nỗi sầu, và dường như nó còn chuyên chở cả nỗi sầu mênh mông của người, của cảnh đi khắp trăm ngả, không dừng đợi. Câu cuối đoạn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, chính là tâm sự, là nỗi niềm, là thân phận của tác giả. Giữa mênh mông sóng nước như thế, lại chỉ có một nhánh củi khô nhẹ bẫng, trơ trọi, đơn độc lênh đênh không biết trôi dạt về đâu. Cũng như chính Huy Cận hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc, không có tiếng nói, sức ảnh hưởng, không biết rồi mai đây số phận đẩy đưa, thời thế đất nước sẽ ra sao, bất lực và bế tắc vô cùng. Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại khi tác giả khéo léo bộc lộ cái tôi, nỗi buồn cá nhân trước thế sự, thì vẻ đẹp cổ điển còn được in đậm bằng các từ láy “điệp điệp”, “song song”, những từ hán việt “sầu”, “tràng giang” mang đến cho bức tranh thiên nhiên sông nước vẻ đẹp cổ kính, đượm buồn. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Đến khổ thơ cuối, vẻ đẹp cổ điển, lãng mạng trong phong cách sáng tác của Huy Cận càng được thể hiện rõ ràng trong khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, cùng những chất liệu thơ quen thuộc trong Đường thi. Đó là nét cổ điển với bút pháp chấm phá “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mây vờn quanh núi từng lớp, từng lớp dày đặc, đầy nội lực, mạnh mẽ với từ “đùn” khiến cho ngọn núi phủ một màu trắng ngà. Dưới ánh nắng mặt trời những ngọn núi ấy trông như được dát bạc, tạo nên cảnh tượng hùng vĩ hiếm có, đồng thời cũng thể hiện sức sáng tạo trong thơ ca của tác giả, với những liên tưởng thú vị. Và trên cái khung cảnh tráng lệ ấy xuất hiện một cánh chim nhỏ bé, lạc lõng “Chim nghiêng cánh nhỏ Bóng chiều sa”, là chim nghiêng cánh để bóng chiều sà xuống bao trùm khắp không gian, hay là bóng chiều đổ xuống làm nghiêng đi cánh chim nhỏ bé, chao liệng, chất chứa nhiều nỗi cô đơn. Có thể nói rằng hình ảnh cánh chim luôn là một thi liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển, là dấu hiệu của buổi hoàng hôn, của buổi chiều tà, mang đến cho con người những nỗi bâng khuâng, bất định trong tâm tưởng khi nhìn bóng chim bay lưng trời mà chưa thấy một điểm dừng nhất định. Hai câu thơ cuối cùng dù vẫn dùng chất liệu thơ cổ, thế nhưng nội dung thơ lại đậm tính hiện đại, khi trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê nhà tha thiết của tác giả. “Lòng quê dợn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, trước những cảnh tượng mênh mông rộng lớn, hùng vĩ đến thế nhưng bản thân người thi sĩ lại cô đơn, không có nổi một chốn cho tâm hồn nương tựa. Trước những nỗi sầu bi bất định như thế, Huy Cận không khỏi nhớ nhà, nhớ quê nơi đã sinh ra, cho lữ khách hơi ấm yêu thương, để vơi bớt đi những quạnh quẽ, chua xót trong lòng. Nỗi nhớ ấy tha thiết đến độ không cần đến “khói hoàng hôn”, ánh lửa bữa cơm chiều từ những căn bếp mà lòng vẫn đượm một nỗi nhớ mong sâu nặng. Ấy rồi mở rộng ra nỗi nhớ quê đau đáu của Huy Cận lại diễn ra khi chính bản thân tác giả đang đặt chân ở mảnh đất quê mình, ta mới hiểu được rằng nỗi nhớ quê chính là lòng yêu nước thầm kín, Huy Cận nhớ về những ngày đã xa, khi đất nước còn yên ấm, tươi đẹp, khác hẳn với hiện thực đau thương, buồn bã. Mà trước cảnh tượng ấy, ông lại chỉ có thể bất lực trước thời thế rối ren, luẩn quẩn trong chính sự bế tắc của tâm hồn với những nỗi sầu bi bất định, nghe thật chua xót. Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình, ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu nặng. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong Tràng giang bằng lối thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. chia sẻ 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌹 Văn Mẫu Hay Bài Phân Tích Khổ 1 4 Tràng Giang Chọn Lọc – Mẫu 8 Bài văn mẫu bài phân tích khổ 1 4 Tràng giang chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi thêm cho mình những ý văn hay và đặc sắc. Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo. Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát. Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ. Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới. Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào Lòng quê dờn dợn vợi con nướcKhông khói hoàng hôn cùng nhớ nhà. Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước. Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng. Tham khảo trọn bộ 🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌼 Văn Mẫu Tuyển Chọn Phân Tích Khổ 1 Và 4 Bài Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 9 Với bài văn mẫu phân tích khổ 1 và 4 bài Tràng giang đặc sắc dưới đây, các em học sinh có thể chắt lọc cho mình những luận điểm phân tích đa chiều và sâu sắc. Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi mái nước song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng.” Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình. Ở khổ thơ cuối, bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt. Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào “Lòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết “Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng sử nhân sầu”. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,.. Qua 2 khổ thơ đầu và cuối tác phẩm, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang 💧 ay Nhất Phân Tích Khổ 3 4 Tràng Giang Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 10 Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ 3 4 Tràng giang ngắn gọn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh ôn tập tác phẩm và chuẩn bị tốt cho bài kiểm tra trên lớp. Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu muộn của mình trong đó. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả. Đặc biệt là hai khổ thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, trong bối cảnh không gian mênh mông sông nước trời biển bao la, thời gian là cảnh chiều tà, nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn. Một nỗi buồn nhân thế không biết tỏ bày cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào những câu thơ của riêng mình. Trong câu thơ “mênh mông” hai từ láy này gợi lên cho người đọc sự sầu muộn bao la, trước cảnh sông chiều nhưng không có một con đò nhỏ để qua sông, càng làm cho lòng người thêm man mác. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối lập giữa không gian và con người bé nhỏ, không gian càng mênh mông thì con người càng cảm thấy mình thật cô đơn bé nhỏ, lạc lõng biết bao nhiêu. Khung cảnh thiên nhiên thể hiện như tâm trạng của nhà thơ Huy Cận lúc này đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa đất trời sông nước bao la không tìm được một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tác giả, làm cho nỗi cô đơn cứ thế mà xô sóng ở trong lòng, con người cảm thấy mình thật bé nhỏ, bất lực trước cuộc sống hiện tại. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.” Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn. Thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người đọc cảm giác buồn thê lương, não lòng, đúng như câu thơ của Nguyễn Du viết trong tác phẩm Truyện Kiều rằng Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” để thể hiện sự cô đơn, lẻ loi buồn chán của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời. Tác giả Huy Cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian bao la rộng lớn, mênh mông của đất trời, vũ trụ… “Lòng quê rờn rợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.” Trong hai câu thơ này thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả Huy Cận. Người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái để hướng tới quê hương, gia đình, hướng tới người thân thương nhất của mình. Nhưng Huy Cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thể hiện nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực, nó luôn chứa đựng in sâu trong lòng tác giả, không cần phải có chất xúc tác là khói lam chiều mới nhớ. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ vô cùng hay thể hiện bức tranh quê hương trong cảnh hoàng hôn vô cùng tươi đẹp, sinh động, với hình ảnh thân thuộc như cánh chim, mây trời, sông nước, rồi những cánh bèo trôi… Qua hai khổ cuối bài Tràng giang, chúng ta có thể thấy tất cả đều gợi lên một bức tranh chiều tà vô cùng tinh tế, tươi đẹp nhưng thể hiện một nỗi sầu nhân thế vô cùng sâu sắc trong lòng tác giả. Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài 🌜 10 Bài Văn Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Chi Tiết – Mẫu 11 Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 3 4 chi tiết để các em học sinh cùng tham khảo và vận dụng để hoàn thành tốt bài viết của mình. Huy Cận tưởng như là người lữ khách với niềm đam mê bất tận về một vẻ đẹp buồn âu sầu ảo não, vậy nên thi nhân đã không ngại bỏ buồn vào không gian, lượm lặt từ những chất thơ tế vi mỏng manh của tạo vật để làm nên những bức tranh không gian mang nỗi hoài cổ của chính mình. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang là những vần điệu mang đậm nét âm hưởng ấy. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hình ảnh cánh bèo từ bao lâu nay gửi mình vào trong thơ luôn là hình ảnh gợi về sự mỏng manh, vô định và rẻ rúm của kiếp người. Trên điệu chảy nhịp trôi chầm chậm của câu thơ này, một lần nữa xúc cảm ấy lại được gợi về. Những hàng bèo nối đuôi nhau, cứ chảy trôi bất tận, dòng sông hay cũng chính là dòng đời vô định chảy trôi khiến cho kiếp người bé nhỏ cảm thấy bơ vơ, bế tắc và mất phương hướng. câu thơ mang âm hưởng buồn man mác, một nỗi buồn đậm chất Huy Cận. Nhất là hình giữa dòng mênh mông vô bờ ấy, một chuyến đò ngang gợi niềm thân mật, gợi sự kết nối cũng không xuất hiện dù chỉ thoáng qua, mà còn lại đây chỉ đơn côi với những cánh bèo vô thức trôi. Chính vì thế không gian sông nước vốn dĩ mênh mông, vốn dĩ đã làm nên những biển buồn bất tận bỏ vào lòng người, nhưng nay không chỉ là sức gợi vô tận về nỗi buồn mà còn mang một chiều sâu khác về sự đứt gãy nối kết. Biểu tượng cây cầu bao giờ cũng là điểm tựa để cho người đọc cảm nhận mãnh liệt nhất về sự gắn kết, của sự gắn bó và nối tiếp. Thế nhưng ở đây, nó không xuất hiện phải chăng là một chỉ dấu ngầm cho sự đứt gãy kết nối, đứt gãy những mắt xích gắn kết, hay cũng là một chỉ dấu để độc giả cảm nhận được về sự cô đơn trống vắng hoang hoải đến bất tận trong tâm hồn con người. Còn đò ngang là nơi bấu víu, là nơi con người tìm đến để có thể vượt qua cách trở về không gian mà đến gần với nhau hơn, nhưng giờ đây ngay cả điểm tựa duy nhất ấy cũng đã biến mất không dấu vết. Trả lại cho nhân vật trữ tình chỉ là những bãi trống hoang hoải cô liêu của bờ xanh bãi vàng. Ta bỗng nhớ đến hình ảnh những bãi xanh hun hút bận tận không cùng trong câu thơ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm. Các tính từ, các từ láy “lặng lẽ” một lần nữa nhấn thêm vào sự trống vắng, mênh mông và cô đơn vời vợi của tâm hồn, của lòng người. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dợn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Khổ thơ cuối có thể coi là tuyệt bút tuyệt hoa mà Huy Cận đặc dùng. Mây cao núi bạc, khung cảnh mới thật hùng vĩ, tráng lệ làm sao, đó là những chất liệu mang màu cổ điển được họa sĩ Huy Cận vờn phối cho bức tranh chiều tà nhuốm màu buồn man mác của chính mình. Khiến cho chỉ một câu thơ ngắn, nhưng lại gợi về thăm thẳm những mênh mông và rợn ngợp từ quá khứ đuổi về hiện tại, từ cổ điển gọi về hiện đại. Cánh chim gọi buổi chiều, tín hiệu ấy dường như không còn xa lạ nữa, thế nhưng vào trong thơ Huy Cận nó vẫn chở những xúc cảm của riêng nhà thơ vào trong đó. Tưởng như cánh chim nhỏ bé và đơn côi ấy, đã chờ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh của mình, tưởng như đã chở cả cái không cùng và cô đơn vời vợi của kiếp người ở trên đó. Dấu hai chấm tưởng như một sự ngăn cánh, để làm điểm nhấn cho độ nghiêng rất nghệ mà cũng rất tinh của cánh chim nhỏ, hay có thể là dụng ý của nhà thơ để cả câu thơ nâng đỡ cả điệu hồn của thi nhân gửi vào đó. Hai câu thơ cuối, đứng trước thiên nhiên rộng lớn mênh mông, thi nhân bỗng trào dâng một nỗi nhớ nhà khôn nguôi, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ luôn trở đi trở lại như một lời khấn khứa, như một khắc khoải khôn nguôi xuất phát từ tấm lòng của một cái tôi đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu vắng quê hương. Hoàng hôn thường là mốc thời gian gợi nhớ gợi buồn, nhưng ở đây không gian ấy chỉ đơn thuần là ngoại giới, còn trong nội tâm nhà thơ, thì toàn bộ tâm hồn đã hướng trọn về tình quê mất rồi. Lấy cái không để gợi về cái có, để gợi về nỗi lòng, để khơi gợi sự đồng điệu đó chính là cái tài trong bút thơ Huy Cận. Hai khổ thơ cuối Tràng Giang, dường như là những mạch chảy mạnh mẽ nhất của tâm trạng thi nhân, tưởng như nếu lắng mình nghiêng lòng xuống trang sách có thể cảm được điệu tâm hồn buồn và cô đơn của cái tôi thơ Mới chở mang trong đó. Giới thiệu tuyển tập 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Phân Tích Tràng Giang Khổ 3 4 Hay Và Đầy Đủ – Mẫu 12 Bài văn mẫu phân tích Tràng giang khổ 3 4 hay và đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài. Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong phần phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng giang dưới đây Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hắt hiu Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trôi theo dòng nước mà không biết trôi về đâu, tựa như dòng đời bơ vơ, vô định, cảm thấy mình bất lực và nhỏ bé. Ở đây có sự đối lập giữa những thứ đang có và những thứ không có. Chỉ có dòng nước mênh mông với những cánh bèo nối tiếp nhau trôi trong vô định, không có lấy một cây cầu dù chênh vênh, không có lấy một con đò dù nhỏ bé. Hai bên bờ sông mà như hai thế giới, không có một chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới. Hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, ko chút thân mật, không chút giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. Giữa trời đất bao la nhưng không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu mình. Nỗi cô đơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương. Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này. Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian Lòng quê dợn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn, Người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chất chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một tác động nào từ bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê. Qua 2 khổ cuối bài Tràng giang càng thấy rõ hơn bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Đồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn một “nỗi sầu nhân thế”. Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Tràng Giang Huy Cận 🌟 Những Bài Hay Nhất Phân Tích 4 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang – Mẫu 13 Đón đọc dưới đây bài phân tích 4 khổ thơ đầu bài Tràng giang sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu hay để tham khảo và học tốt tác phẩm. Huy Cận là một trong những cây bút tiêu biểu của phong trào thơ mới trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Hồn thơ Huy Cận luôn chất chứa một nỗi buồn nhân thế, một nỗi sầu vạn kỉ, nỗi buồn tủi về thân phận bơ vơ, nhỏ bé trước cuộc đời đầy bất trắc. Rồi từ đó Huy Cận thường tìm đến những không gian dài rộng choáng ngợp để làm nổi bật cảm giác cô đơn, rờn rợn của con người mà “Tràng giang” là một không gian lý tưởng để nhà thơ bộc bạch tâm sự của mình. Bài thơ chính là hình ảnh một con sông đẹp mà buồn, cổ điển mà hiện đại, được khúc xạ qua nỗi lòng Huy Cận. Một thi nhân mất nước đang sống bơ vơ giữa cuộc đời chưa tìm thấy hướng đi cho mình trong cảnh đời nô lệ. Huy Cận là một tác giả xuất sắc trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, với một giọng thơ rất riêng ông đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới năm 1930 đến 1945. Ông vốn quê quán ở Hương Sơn Hà Tĩnh, trước cách mạng tháng tám thơ Ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật. Với các tác phẩm tiêu biểu như “Lửa Thiêng”, “vũ trụ ca”, “kinh cầu tự”. Nhưng sau cách mạng tháng 8 tâm hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được xây dựng từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động “trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “bài thơ cuộc đời”… vẻ đẹp thiên nhiên nỗi sầu nhân thế một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ Tràng Giang. Đây là một trong những bài thơ hay tiêu biểu và nổi tiếng của nhà thơ được viết vào mùa thu năm 1939 in trong tập Lửa Thiêng. Bài thơ được gợi cảm hứng khi Huy Cận đứng ở bờ Nam Bến chèm, Sông Hồng. Nhìn cảnh mênh mông sông nước lòng với vợ buồn cám cảnh cho kiếp người nhỏ nhoi, trôi nổi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn, hoài nghi thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại được nét hiện đại đã in dấu ấn toàn diện tạo nên vẻ đẹp độc đáo của một bài thơ mới. Ngay từ đầu khi mới đọc nhan đề “Tràng Giang” ta đã bắt gặp một chất thơ cổ điển mà trang trọng. “Tràng Giang” cũng chính là “Trường Giang”, có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết “Trường Giang” mà lại viết “Tràng Giang”, tạo nên phép điệp âm, một tâm mở và nhờ vậy gợi lên hình ảnh một con sông rộng, mà còn dài thăm thẳm. “Tràng Giang” lại là một từ Hán Việt cổ điển nên cũng kín đáo, gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời. Dòng tràng giang vì vậy không chỉ có chiều dài rộng địa lý, mà còn có chiều sâu của thời gian của lịch sử. Đó là con sông như đã chảy từ ngàn xưa đã trầm tích vào trong mình chiều sâu của hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và dường như đã trải qua bao áng cổ thi bất hủ muôn đời. “Duy chiến trường giang thiên tế lựu”Lý Bạch. Tiếp nối sự cổ kính trang trọng ở nhan đề, chất cổ điển càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Câu thơ đề từ qua đã ôm trọn chủ đề của bài thơ, các hình ảnh trời rộng sông dài gợi những phạm vi không gian khác nhau từ thấp đến cao, từ xa đến gần một không gian lớn lao mênh mông có tầm vũ trụ. Hình tượng này còn trở đi trở lại nhiều lần trong bài thơ. “Sông dài trời rộng bên cô liêu”. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ, chứa đựng đầy khắp không gian cảnh nào cũng gợi buồn nên bâng khuâng là cảm giác xao xuyến, trống trải của con người khi đối diện trước không gian mênh mông, rộng lớn, thì “nhớ” lại là niềm hoài niệm của con người để điều gì đó đã khuất xa trong thời gian, không gian. Cả dòng thơ đã bộc bạch trực tiếp nỗi niềm, tâm trạng con người bộc lộ nỗi khắc khoải của hồn thơ Huy Cận. “Huy Cận dường như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” Xuân Diệu. Chất cổ điển được nhà thơ thể hiện xuyên suốt bài thơ thông qua việc sử dụng các thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ, như “con thuyền”, “dòng sông”, “Cánh bèo”, “mặt nước”. Kết hợp với những hình ảnh tượng trưng thường gặp trong thơ cổ, “Tràng Giang, bến cô liêu, mây cao, núi bạc, khói hoàng hôn”. Ẩn sau những hình ảnh rất đỗi bình dị ấy ta bắt gặp nỗi buồn thấp thoáng của một con người đang chìm vào hư không, mong mỏi một sự giải thoát cho tâm hồn. Cảnh sông nước mênh mông, đẹp mà buồn, khung cảnh thiên nhiên ấy gợi lên niềm khao khát của một con người không tìm thấy tâm hồn đồng điệu trong cuộc đời, trong một thế giới mà nỗi buồn thân phận cô đơn đã trở thành nỗi sầu vạn kỉ của kiếp người. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang,Không cầu gọi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Đoạn thơ miêu tả hình ảnh dòng sông vắng lặng như tờ không một con thuyền, không cầu qua lại, chỉ có những cánh bèo nối hàng mà trôi vô hướng. Đây cũng là một hình ảnh mà ta thường bắt gặp trong thơ ca cổ điển, hình ảnh những cánh bèo trôi vô định, không phương hướng gợi ra sự trôi nổi, lênh đênh, thân phận bèo bọt của một kiếp người. Dòng sông mênh mông thì không một chuyến đò ngang, không một nhịp cầu nối bờ, gợi ra đôi bờ của dòng sông như hai thế giới hoàn toàn xa lạ cách biệt cứ song song, “lặng lẽ tiếp bãi vàng”, không một chút niềm thân mật, không giao cảm giao hòa. Dòng sông “Tràng Giang” ở dưới buồn và đẹp bao nhiêu thì ở trên lại có bầu trời sâu chót vót, mang một nét đẹp rất cổ điển. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiếu sa”. Hai câu thơ đã gợi cho ta nhớ đến câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Đỗ Phủ Trung Quốc. “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Trên cái nền mênh mông của không gian, mây trôi thành cồn “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, rồi lên một cánh chim. “Chim nghiêng cánh nhờ bóng chiếu xa”. Một con chim đã nhỏ lại nghiêng cánh Trăng làm cho nó nhỏ nhoi đến tội nghiệp. Đúng là cánh chim của thơ mới lãng mạn, vì cánh chim ấy không chỉ gợi ra sự nhỏ bé mà còn cô liu, lặng lẽ, cánh chim ấy sà xuống phía cuối chân trời như một tia nắng nhỏ buổi chiều rớt xuống. Đặc biệt là cánh chim ấy ta đã bắt gặp trong cổ thi khá nhiều. “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan. “Chim mới về rừng tìm chốn ngủ”.Chiều Tối của Hồ Chí Minh. Mặc dù là một bài thơ mới lãng mạn nhưng “Tràng Giang” lại hội tụ những nét nghệ thuật độc đáo mang đậm dấu ấn đường thi. Bài thơ được làm theo thể thất ngôn trường thiên, đậm chất cổ điển làm cho nỗi buồn như chủ đạo cả bài thơ dường như cũng được kéo dài ra vô tận. Cách tổ chức tạo ra hình ảnh song song “Thuyền về nước lại, nắng xuống trời lên, Sông dài trời rộng bờ sang bãi vàng”. Những hình ảnh này kết hợp với nhịp điệu thơ truyền thống 3/4 gợi ra một âm hưởng trôi chảy, xuôi chiều. Một âm điệu thơ mênh mang, xao xuyến giữa hồn thơ và núi sông đất nước. Hai sắc thái cổ điển còn được bộc lộ qua cách sử dụng nghệ thuật đối đường thi tạo ra vẻ cân xứng, trang trọng, mở ra các chiều của không gian bao la, bát ngát. Đâu chỉ dừng lại ở đó ý vị cổ điển còn được nhà thơ Huy Cận khai thác triệt để qua việc dùng các từ ngữ, từ láy, hình ảnh mang đậm âm điệu cổ kính. Rải rác khắp bài thơ là hệ thống một loạt từ láy “Tràng Giang, điệp điệp, song song, điều hưu, rờn rợn, lớp lớp”…. Tất cả đã tạo nên cho tui phẩm của Huy Cận một nét đẹp cổ điển rất riêng mang phong cách của riêng nhà thơ không thể pha lẫn vào đâu được. “Tràng giang” được sáng tác trong giai đoạn 1930 đến 1945 là một bài thơ mới lãng mạn nên màu sắc thơ ca bao trùm bài thơ phần lớn là màu sắc hiện đại. Trước hết nét hiện đại trong bài thơ thể hiện ở những hình ảnh, âm thanh rất chân thực đời thường mà ta dễ bắt gặp trong cuộc sống thường nhật. Đó là các hình ảnh không ước lệ không đẹp một cách hoa mỹ, mà mang một vẻ đẹp giản dị chân quê. Hình ảnh một cành củi khô trôi chông chênh, vô định trên dòng nước cánh bèo trôi dạt nối hàng lênh đênh, ánh nắng, hoàng hôn nhạt nhòa soi rọi thưa thớt, đâu đây còn có âm thanh vụn vặt của văn chợ chiều. Tất cả làm nên một bức tranh quê hương gần gũi, quen thuộc bởi nó như một bức tranh thu nhỏ của quê hương sông nước Việt Nam. Nét hiện đại trong bài thơ “Tràng Giang” còn được thể hiện ở một cái tôi mạnh dạn, táo bạo, giám trực tiếp bộc lộ nỗi buồn của riêng mình, mà đó cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên yêu nước thời bấy giờ chưa tìm thấy lối đi đúng đắn. Nỗi buồn man mác, bâng khuâng của cái tôi trữ tình ấy ẩn chứa sâu mỗi câu chữ của cả bài thơ. Mở đầu bài thơ ta đã bắt gặp một nỗi buồn khó tả quang cảnh sông nước mênh mông, tất bật, bất tận. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpCon thuyền xuôi nước máy song songThuyền về nước lại sầu trăm ngảCủi một cành khô lạc mấy dòng” Ngay câu đầu bài thơ không chờ nói sông mà nói buồn nói về một nỗi buồn bất tận bằng một hình ảnh ẩn dụ “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”, như một nỗi buồn trùng trùng, điệp điệp khó dứt con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh cô đơn vô định. Ở đây con thuyền xuôi mái theo dòng nước, hai vật vốn gắn bó xuôi chiều theo nhau ấy vậy mà ở đây thuyền và nước chỉ song song với nhau chứ không thân thiết. Bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào thuyền đi với dòng để rồi chia ly với dòng. Câu thơ thứ ba đã nói tới sự chia lìa tan tác “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, thuyền buồn vì phải sẽ dòng, nước buồn vì không biết đi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi lạc lõng vô định “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cả khổ thơ đầu đã vẽ nên một không gian sông nước bao la rời rạc hờ hững qua các đường nét con thuyền gánh củi gợn sóng. Theo đó là nỗi “buồn điểm Điệp”, “sâu trăm ngả”, không chỉ làm cho thuyền buồn cành củi buồn vợ xuống dòng sông buồn mà cả cái tôi trữ tình càng thêm được buồn khôn nguôi. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch cảm xúc của đoạn dạo đầu. “Lơ thơ còn nhỏ gió đìu hiuĐầu Tiếng Làng xã Vạn chợ chiều,Nắng xuống trồi lên sau chót vótSông dài trời rộng bên cô liêu”. Một cái còn nhỏ nơi thơ vắng vẻ lại thêm ngọn gió đìu hiu càng vắng vẻ buồn hơn như bị cuộc sống bỏ quên. Đến đây đã xuất hiện tín hiệu sống của con người, nhưng đó chỉ là âm thanh vật vẫn mông lung của một chợ chiều, làng xa đã vãn càng tăng thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối cùng càng tô đậm thêm cảm giác lạc lõng, chơ chọi, không gian được mở ra ba chiều hết kích cỡ, “năng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng”, nhưng lại không ăn nhập với nhau. Trong hai dòng thơ này nhà thơ đã đem đặt bên nhau những yếu tố không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn, bởi lẽ giữa cái không gian bao la choáng ngợp ấy nhà thơ càng thấy mình như nhỏ nhoi biết bao. Cái mênh mông và im lặng đến đáng sợ như muốn nuốt chửng con người, nên đã buồn lại càng buồn hơn. Tiếp nối sự dự nhập bởi nỗi cô đơn, do chiều cao vô cùng của bầu trời đem lại, thì những câu thơ tiếp theo sau đây nhẹ tựa như một tiếng thở dài đầy bâng khuâng và sầu muộn, của cái tôi trước tạo vật hững hờ. Nỗi sầu muộn đó sẽ còn tiếp tục gây ám ảnh, khi cái tôi trữ tình đối diện với một thiên nhiên gần như ngoảnh mặt làm ngơ với bao nỗi niềm cần sẻ chia của con người. “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò ngang,Không cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Giờ đây trên dòng sông chỉ có bèo duy nhất, bèo hàng nối hàng, không có đò ngang, không cầu bắc không một công trình mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh trải dài ra bờ xanh, Bãi sậy, buồn tràn ngập cái tâm hồn thi sĩ mà không sao tả xiết. Kết thúc bài thơ cũng là đỉnh điểm của nỗi buồn, nỗi buồn khó tả kết tụ thành một nỗi nhớ da diết thường trực. Đó cũng là một nét tâm trạng hiện đại, mới mẻ. “Lòng quê rờn rợn vờn con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. “Lòng quê rờn rợn” là lòng thương nhớ quê nhà bắt nguồn từ sông nước “Tràng Giang”, thiên nhiên không chỉ là nơi gửi gắm nỗi buồn mà còn là nơi gửi gắm lòng thương quê nhà. Yêu thiên nhiên cũng là lĩnh vực biểu hiện lòng yêu đất nước, câu thơ cuối vừa phủ định “không khói hoàng hôn”, vừa khẳng định “cũng nhớ nhà”. Thể hiện trong bài “Hoàng Hạc lâu” cũng kết thúc bằng hai câu. “Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khỏi sống cho buồn lòng ai”. Thơ xưa cần đến cái gợi nhớ để nhớ, nhưng Huy Cận không cần cái gợi nhớ cũng òa lên nức nở. Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ thương quê nhà luôn thường trực, gia giết trong tâm khảm nhà thơ. “Tràng Giang”, thật đúng là một thi phẩm tuyệt tác của phong trào thơ mới, cả bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển, lại hòa lẫn với phong vị hiện đại đã mang đến cho người đọc một cảm xúc rất mới mẻ và khó quên. Bài thơ đúng như lời của Huy Cận “Tràng Giang” là bài thơ tình, tình gặp cảnh một bài thơ về tâm hồn. Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 2 Tràng Giang 🌠 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Phân Tích 4 Khổ Thơ Cuối Bài Tràng Giang – Mẫu 14 Dưới đây chia sẻ bài phân tích 4 khổ thơ cuối bài Tràng giang với những phân tích đầy đủ giúp các em học sinh nắm bắt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tràng Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên. 4 câu thơ trong đoạn đầu hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng. Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,Con thuyền xuôi mái nước song về nước lại, sầu trăm ngả,Củi một cành khô lạc mấy dòng. Câu thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của con người. Từ “ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng. Dòng sông ấy có từ “gợn” chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người, có thể nói có bao nhiêu sóng gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Điệp từ “điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng triền miên. “Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền xuôi mái nổi bật giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “Xuôi mái” ở trạng thái bị động mặc cho dòng nước trôi. Từ láy “song song” “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử dụng cặp từ ngược hướng phải chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngả. Ở câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “cành củi khô”. Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và vô giá trị, không chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm thường nhỏ bé và đơn độc cạn kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ xuống, trời lên sâu chót vót;Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bức pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn tả.” Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn mạnh cái sự vắng vẻ nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ có một cồn nhỏ đìu hiu vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con người. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người. Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống đối với trời lên”, “sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô liêu”. Động từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên với một trạng thái cô đơn. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,Mênh mông không một chuyến đò cầu gợi chút niềm thân mật,Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Khổ thơ tiếp theo gợi nên sự vô định “cánh bèo” không phải đơn thuần là cánh bèo không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ thanh niên Việt Nam không tìm thấy hướng đi. “Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người nhưng tác giả đã nói là “không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở đây chỉ có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới. Chính nỗi niềm này đã được tác giả nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người ở đây cô đơn bất an, rợn người. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nước,Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Khổ thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ, tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thấy được dấu ấn cổ điển thì ở đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không chỉ chở nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới. Đến với hai câu cuối của bài thơ “lòng quê dờn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự phủ định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết hơn, cháy bỏng hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ láy “dờn dợn” như những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận. Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãng mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “sầu ảo não”. Bài thơ “Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc. Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Tràng Giang 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất
Mở Bài Tràng Giang Hay ❤️️ 20 Đoạn Văn Mẫu Phân Tích ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Mẫu Mở Bài Trực Tiếp Và Gián Tiếp Hay Nhất Được Chọn Lọc Tại Mở Bài Tràng Giang Huy Cận – Mẫu 1Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2Mở Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3Mở Bài Phân Tích Tràng Giang – Mẫu 4Mở Bài Trực Tiếp Tràng Giang – Mẫu 5Mở Bài Gián Tiếp Tràng Giang – Mẫu 6Mở Bài Tràng Giang Gián Tiếp Sinh Động – Mẫu 7Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất Học Sinh Giỏi – Mẫu 8Mở Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi Chọn Lọc – Mẫu 9Mở Bài Tràng Giang Nâng Cao – Mẫu 10Mở Bài Bài Thơ Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 11Mở Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 12Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 – Mẫu 13Mở Bài Tràng Giang Khổ 2 – Mẫu 14Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 2 – Mẫu 15Mở Bài Tràng Giang 2 Khổ Đầu – Mẫu 16Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 – Mẫu 17Mở Bài Tràng Giang Khổ 4 – Mẫu 18Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 4 – Mẫu 19Mở Bài Tràng Giang Khổ Cuối – Mẫu 20 Viết mở bài Tràng giang Huy Cận với lời dẫn dắt hay và sinh động sẽ giúp bài viết của bạn trở nên ấn tượng hơn. Tham khảo gợi ý dưới đây Thời đại Thơ mới của Việt Nam ghi dấu sự thành danh của nhiều bậc thi nhân đại tài. Đó là một Xuân Diệu khao khát tình đến cháy bỏng, mãnh liệt. Một Chế Lan Viên trăn trở đi tìm cái tôi cá nhân. Một Hàn Mặc Tử chìm trong thực và mộng. Và có cả một nhà thơ – một con người mang tâm hồn của một kẻ ảo não, chênh vênh giữa cõi đời rộng lớn. Thơ ông hàm súc nhưng lại ẩn chứa biết bao triết lý cùng những dòng suy tưởng miên man. Không ai khác ngoài Huy Cận – chàng thi sĩ đã để lại cho đời biết bao tác phẩm xuất sắc tuyệt thế mà đặc sắc nhất phải kể đến thi phẩm “Tràng giang”. Gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Tràng Giang ☔ 12 Mẫu Tóm Tắt Hay Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất – Mẫu 2 Chia sẻ mẫu mở bài Tràng giang hay nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết của mình. Huy Cận – một tiếng thơ man mác nỗi sầu, một tâm hồn hoang hoải, nhạy cảm với từng biến chuyển tinh tế của thiên nhiên. Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến thời kì Thơ mới trước năm 1945, khi cái tôi của mỗi cá thể được coi là những vật thể tinh tú nhất, thơ ông luôn thể hiện tinh thần và điểm nhìn cá nhân độc đáo khó hòa lẫn. Trong “Tràng giang”, từng câu chữ đều được Huy Cận phủ lên nỗi buồn da diết, mênh mông bể sở. Cái nỗi buồn khó nắm bắt, khó định hình của một tâm hồn dễ rung động trước cảnh vật, của trái tim khao khát được yêu thương, được hòa quyện. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Thơ mới được coi như “tập sách gối đầu giường” của các nam thanh nữ tú đương thời, viết về tình yêu, về nỗi băn khoăn, trắc trở trong tình cảm đôi lứa. Chính vì thế, tinh thần chủ đạo trong những bài thơ của thời kì này là nỗi buồn, sự cô tịch, quạnh hiu. Nhóm bút “Tự lực văn đoàn” bao gồm những cây bút lão luyện như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đã tạo nên một thời kì thơ ca lãng mạn, tình tự. “Tràng giang” là một lời tự thuật về cái khắc khoải, buồn đau của một cái tôi nhỏ nhoi giữa mênh mông trời đất. Con người cảm thấy nhỏ bé, cô độc giữa không gian vô tận. Ra đời năm 1940 trong tập “Lửa thiêng”, tác phẩm được coi là tác phẩm đưa Huy Cận lên bậc lão làng trong phong trào Thơ mới. Lấy điểm nhìn từ bờ Nam bến sông Hồng, giữa sông nước bất tận, lòng người gợi lên một nỗi u hoài cho thân phận nhỏ bé, vô định giữa đất trời khắp cùng. Có thể bạn sẽ thích 🌼 Kết Bài Tràng Giang 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Ngắn Gọn – Mẫu 3 Tham khảo mẫu viết mở bài Tràng giang ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh chuẩn bị tốt cho bài viết trên lớp. Huy Cận 1919 – 2005, quê ở Hương Sơn – Hà Tĩnh. Là một trong những thi sĩ có công đưa phong trào này lên tới đỉnh cao. Ở độ chín nhất, phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển nhất là cổ điển Đường thi với yếu tố thơ Mới, cụ thể hơn là sự hòa hợp giữa nỗi sầu vũ trụ và thế nhân từng chan chứa trong thơ Đường với nỗi cô đơn của cái “tôi” cá nhân, cá thể trong thơ Mới tạo nên nỗi sầu vạn kỉ. Bài thơ Tràng giang sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng là bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám được xếp vào hàng kiệt tác. Mở Bài Phân Tích Tràng Giang – Mẫu 4 Gợi ý cách viết mở bài phân tích Tràng giang dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi những ý văn hay. Hoài Thanh đã có một nhận định về các nhà thơ mới năm 1930 “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét độc đáo riêng của mình. Huy Cận là một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang” là một bài thơ đặc sắc và thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ. Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất Mở Bài Trực Tiếp Tràng Giang – Mẫu 5 Tham khảo và vận dụng mẫu mở bài trực tiếp Tràng giang dưới đây giúp các em học sinh luyện tập cách dẫn dắt vấn đề trực tiếp. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà con là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là một bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Gửi tặng bạn 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất Mở Bài Gián Tiếp Tràng Giang – Mẫu 6 Dưới đây là mẫu mở bài gián tiếp Tràng giang để các em học sinh cùng tham khảo và có cách bắt đầu bài viết thật ấn tượng. Mỗi ai khi đi xa đều mang trong mình chút hình chút bóng thân thương của dòng sông quê hương. Đặc biệt đối với các nhà thơ, nhà văn, dòng sông quê luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn, thôi thúc các nhà thơ không thể kìm lòng mà phải viết. Một dòng sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre” trong thơ Tế Hanh, một con sông Đà trong tùy bút Nguyễn Tuân, một dòng sông Hương êm đềm trong văn Hoàng Phủ…. Và chỉ khi đến với “Tràng Giang” của Huy Cận, ta mới thấy hết được những gì đẹp nhất, thơ nhất nhưng cũng chứa chan tình quê trong cảm thức của tác giả. Mở Bài Tràng Giang Gián Tiếp Sinh Động – Mẫu 7 Chia sẻ dưới đây mẫu mở bài Tràng giang gián tiếp sinh động với phương pháp dẫn dắt vấn đề linh hoạt và giàu hình ảnh. Đến với phong trào Thơ Mới, ta được hòa mình trong vườn thơ đầy hương sắc tuyệt diệu của các thi nhân. Ta không khỏi rạo rực, hứng khởi trước những vần thơ táo bạo, tràn đầy năng lượng mê hoặc của Xuân Diệu, không khỏi buồn man mác trước hồn thơ sáng trong của Thế Lữ, thổn thức trước hình ảnh thơ đầy kì dị của Chế Lan Viên, hay say sưa trước hồn thơ quê bình dị mà thân thương của Nguyễn Bính. Và đặc biệt, đến với thơ Huy Cận, ta bắt gặp nét buồn riêng biệt, độc đáo đó là một nỗi sầu rợn ngợp, u hoài, trước vũ trụ mênh mang, dường như chân trời của những nỗi buồn của nhà thơ cứ thế dài vô tận. Bài thơ “Tràng giang” là tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của Huy Cận. Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Tràng Giang Huy Cận 🌟 Những Bài Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Hay Nhất Học Sinh Giỏi – Mẫu 8 Đón đọc mẫu viết mở bài Tràng giang hay nhất học sinh giỏi dưới đây giúp các em học sinh nâng cao kỹ năng diễn đạt. Trong phong trào thơ mới và trong cả nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu và Huy Cận đều là hai nhà thơ lớn, những tên tuổi hàng đầu có những đóng góp to lớn cho nền văn học của nước nhà. Hai nhà thơ này lại chính là những người bạn thân thiết, đến độ tri âm, tri kỷ thế nhưng mỗi một nhà thơ lại có riêng cho mình một nỗi ám ảnh, một niềm suy tư riêng về cuộc đời. Nếu như Xuân Diệu suốt một đời thơ cứ mang một nỗi ám ảnh thời gian, thiết tha với một lòng nồng nàn yêu thương cuộc sống đầy rạo rực, cháy bỏng. Thì Huy Cận trong những năm trước cách mạng lại thường mang một nỗi ám ảnh không gian, với tâm hồn đa sầu, đa cảm, thơ của ông luôn chất chứa những nỗi buồn thế sự, mênh mang của một cái tôi trữ tình bơ vơ, lạc lõng trước thời cuộc rối ren. Và cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian ấy hiện lên thật rõ ràng trong bài thơ Tràng giang, bài thơ đã đưa tên tuổi của Huy Cận vụt sáng thành một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1941. Huy Cận 1919-2005, tên khai sinh là Cù Huy Cận, ông vừa là một chính khách có nhiều năm hoạt động trong bộ máy nhà nước đồng thời cũng là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng thơ của ông đẹp nhưng thường mang những nỗi buồn da diết vô định của một cái tôi trữ tình đầy sầu não trước trời đất bao la, đó là những buồn thương cho kiếp người, cho cuộc đời, buồn thương cho hoạt cảnh đất nước đầy rối ren, phức tạp, là sự bất lực của người thi sĩ. Sau cách mạng thơ của ông như được thay một tinh thần mới, vui tươi lạc quan, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước, con người, và vẫn là những vẻ đẹp của thiên nhiên bao la rộng lớn được ông chú ý ca ngợi nhiều hơn cả. Một số tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận phải kể đến như tập Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng. Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng, lấy cảm hứng cảnh mênh mông sóng nước của sông Hồng kết hợp với cái tôi trữ tình đầy sầu thương, đa cảm, chất thơ vừa cổ điển của thơ Đường lại xen lẫn hiện đại của văn học Pháp, đã đánh dấu phong cách của nhà thơ trước một rừng các nhà thơ mới cùng thời. Đồng thời thể hiện được những nỗi lòng thầm kín của mình về cuộc đời, về kiếp người bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời như dòng nước mênh mang, qua đó thể hiện tấm lòng yêu quê hương đất nước âm thầm, sâu sắc. Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Học Sinh Giỏi Chọn Lọc – Mẫu 9 Với mẫu mở bài Tràng giang học sinh giỏi chọn lọc dưới đây, các em học sinh sẽ có thêm cho mình gợi ý hay khi làm bài. Thiên nhiên đẹp tươi hùng vĩ luôn ẩn chứa nhiều điều bí ẩn và kéo theo đó là vô vàn cảm xúc. Đứng trước cái bao la hùng vĩ của trời đất khiến con người đôi khi thấy mình nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn. Và rồi cứ thế bao nhiêu cảm xúc trong lòng bỗng trào dâng, đó là nỗi nhớ quê, là những tâm sự chưa bao giờ kể. Thật vậy, đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao quá ngắn ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang” của Huy Cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì thế mà những từ ngữ trong bài phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả trên hành trình đi tìm “Thơ mới”. Khám phá thêm 💕 Phân Tích Khổ 1 Tràng Giang 💕 Những Bài Phân Tích Hay Mở Bài Tràng Giang Nâng Cao – Mẫu 10 Tham khảo cách mở bài Tràng giang nâng cao dưới đây với những thông tin hữu ích dành cho các em học sinh. Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà “Tràng giang” ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ. Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo “Ngày nay” sau đó in trong tập “Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào “Thơ mới” thời kì đầu. Mở Bài Bài Thơ Tràng Giang Đặc Sắc – Mẫu 11 Mẫu gợi ý viết mở bài bài thơ Tràng giang đặc sắc dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh. Khi nhận định về phong trào thơ mới, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có những lời bình rất hay và thú vị “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Có thể thấy dường như tất cả những nỗi buồn của thơ mới đều tập trung ở Huy Cận, một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất điều đó chính là Tràng giang, một bài thơ hiện lên với phong cảnh thiên nhiên trữ tình cũng nhuốm đầy nỗi buồn mênh mang, vô định của nhà thơ. Huy Cận 1919-2005, tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp, thơ của ông hàm súc giàu tính suy tưởng và triết lý. Các tập thơ tiêu biểu cảu ông bao gồm Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng. Tràng giang là bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng, tập thơ đầu tay của Huy Cận, đây là một bài thơ hay và tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới, đánh dấu phong cách thơ của Huy Cận trong rất nhiều nhà thơ mới cùng thời. Tràng giang được khơi nguồn cảm hứng từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, lời thơ và hình ảnh thơ thấm đẫm màu sắc cổ điển, bài thơ khắc họa phong cảnh thiên nhiên trong không gian buồn vắng mênh mông. Thông qua đó, nhà thơ đã bộc lộ tình đời tình người và lòng yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng, nửa thầm kín. Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌼 Văn Mẫu Tuyển Chọn Mở Bài Tràng Giang Facebook – Mẫu 12 Chia sẻ dưới đây mẫu mở bài Tràng giang Facebook hay và sinh động giúp các em học sinh hoàn thiện bài viết của bản thân. Trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, nền Văn học Việt Nam mang âm hưởng chủ đạo về cái tôi trữ tình, về nỗi buồn vô định. Thơ ca xoay quanh con người, đặt cá nhân là cá thể cao nhất, đáng quý nhất. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của thời kì Thơ mới bấy giờ là “Tràng Giang” của Huy Cận – một tay bút cứng cựa của nhóm bút “Tự lực văn đoàn”. Vẻ đẹp thiên nhiên là nguồn cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, qua đó, tác giả thể hiện nỗi lòng buồn thương vời vợi, xót xa cho một lớp người nhỏ bé, vô định. Nỗi u sầu tạo nên linh hồn của tác phẩm đã mang đến vẻ đẹp vừa cổ điển lại vừa hiện đại, vừa mới lạ, khác biệt nhưng lại gần gũi, thân thương đến không ngờ. Hoạt động chủ yếu vào thời kì 30 – 45, thơ Huy Cận là tiếng thơ sầu thảm của một kẻ say tình, vô phương hướng, một thi sĩ tài hoa nhưng chưa tìm ra được lối đi đúng đắn cho bản thân. Sau Cách mạng, thơ ông mang tư tưởng lạc quan, yêu đời, được định hướng bởi công cuộc giải phóng và xây dựng đất nước với những bài ca lao động, chiến đấu. “Tràng Giang” được sáng tác trước Cách mạng, nằm trong tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay của tác giả. Lấy bối cảnh từ tầm nhìn của nhân vật trữ tình vào một buổi chiều tàn bên bãi Chèm bờ sông Hồng, tác phẩm là sự giao thoa những vẻ đẹp mang tính thời đại, vừa có âm hưởng cổ điển từ những điển cố, điển tích xưa cũ của thơ nôm, thơ đường, nỗi buồn gợi lên từ cảnh vật quen thuộc, nhưng qua ngòi bút và cá tính thơ của tác giả, những chất liệu quen thuộc ấy trở nên khác biệt, độc đáo và hiện đại hơn. Có thể bạn sẽ thích 🌹 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang 🌹 Văn Mẫu Hay Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 – Mẫu 13 Trước khi thực hiện bài viết hoàn chỉnh, các em học sinh sẽ cấn có một mở bài Tràng giang khổ 1 hay và ấn tượng. Tham khảo gợi ý dưới đây “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắmNỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưaHay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưaCùng đất nước nặng buồn sông núi” Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật trong phong trào thơ mới. Đúng như những nhận xét của Xuân Diệu, trước cách mạng thơ Huy Cận thường mang đậm nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã có rất nhiều sáng tác thể hiện nỗi buồn. Tràng Giang là một trong những tác phẩm hay điển hình cho hồn thơ Huy Cận một thời. Khổ thơ đầu bài thơ đã miêu tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mang, heo hút của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của người thi sĩ trước không gian vô tận. Mở Bài Tràng Giang Khổ 2 – Mẫu 14 Luyện tập viết mở bài Tràng giang khổ 2 sẽ giúp các em học sinh có thêm những ý tưởng hay để bắt đầu và đạt kết quả cao cho bài viết của mình. Không tha thiết, nồng nàn như Xuân Diệu, cũng chẳng điên cuồng lãng mạn như Hàn Mặc Tử, thơ của Huy Cận là một nỗi buồn mênh manh vô tận, buồn từ tâm hồn đến cảnh vật. Đọc thơ ông, ta thấy pha tạp chút hiện đại của văn học Pháp, nhưng nhiều nhất vẫn là nét cổ điển đậm đà của thơ Đường, thế nên ta thường thấy trong thơ ông có nỗi buồn rất lạ, rất vô định. Nhưng suy cho cùng, nỗi buồn thơ ông cũng chỉ xuất phát từ nỗi buồn thế sự, nỗi hoài niệm những điều xưa cũ, những phong cảnh huy hoàng nay đã hết, chỉ còn lại một cuộc đời rối ren. Một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất của Huy Cận phải nhắc đến Tràng giang. Chàng thi sĩ mới 21 tuổi đời, đứng ở nam bến Chèm sông Hồng mà suy tư về cuộc đời mình, cuộc đời người, rồi trước cái không gian rộng lớn, trời rộng – sông dài đã tức cảnh sinh tình đem đến một thi phẩm tuyệt vời, khiến độc giả phải đắm chìm vào trong cả nỗi buồn của chàng thi sĩ. Chỉ lấy nội dung khổ thơ thứ 2 của Tràng giang cũng đủ để ta chiêm nghiệm về nỗi sầu nhân thế ấy. tặng bạn 💧 Phân Tích Khổ Cuối Bài Tràng Giang 💧 ay Nhất Mở Bài Tràng Giang Khổ 1 2 – Mẫu 15 Tham khảo mẫu viết mở bài Tràng giang khổ 1 2 dưới đây với những ý văn dẫn dắt sinh động giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài kiểm tra viết. “Trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm cho mình những dư vị còn lại”. Với Huy Cận ông tìm về nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở đó là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng của ông được khơi nguồn từ đó và đọng lại ở “Tràng Giang”. Nhắc đến nhà thơ Huy Cận là nhắc đến một hồn thơ cổ điển với nỗi buồn mênh mang, sâu lắng. Bài thơ “Tràng giang” là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông. Bài thơ viết về cảnh sông nước nhưng sau bức tranh thiên nhiên rộng lớn, u tịch ấy là một tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của người thi sĩ. Đặc biệt, trong hai khổ thơ đầu tiên, Huy Cận không chỉ mở ra khung cảnh sông nước buồn vắng mà còn hé mở bức tranh tâm trạng thầm kín của bản thân. Mở Bài Tràng Giang 2 Khổ Đầu – Mẫu 16 Dưới đây là gợi ý viết mở bài Tràng giang 2 khổ đầu để các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng vào bài viết sắp tới. Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới 1930-1945 với những tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Đặc biệt hai khổ thơ đầu tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả. Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Bài Tràng Giang Chuẩn Nhất 🍀 Mẫu Nghị Luận Hay Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 – Mẫu 17 Chia sẻ dưới đây gợi ý viết mở bài Tràng giang khổ 3 sẽ giúp các em học sinh định hướng được nội dung chính của đoạn thơ. Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới. Giữa rừng hoa thơ mới, ông nổi bật với bút lực dồi dào và phong cách sáng tác đa dạng. Nếu sau cách mạng tháng Tám thơ ông sôi nổi, nhiệt huyết phù hợp với không khí đổi mới của thời đại thì trước cách mạng Huy Cận được biết đến là một hồn thơ u sầu, ảo não. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác trước cách mạng và cũng chính là cái “tôi” cô đơn, ảo não của Huy Cận trước thời cuộc. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ ba, nhà thơ đã bộc lộ rõ nét nỗi nhớ quê hương, tâm trạng cô đơn, khắc khoải trước không gian sông nước mênh mông, buồn vắng. Tràng giang được Huy Cận sáng tác trong một buổi chiều mùa thu, khi tác giả đứng ở bến đò Chèm ngắm nhìn cảnh sông nước mênh mang. Và cũng có lẽ do được sáng tác trong một không gian đặc biệt như vậy nên nhà thơ cảm nhận thấm thía được sự nhỏ bé, đơn độc của mình giữa thời cuộc. Trong khổ thơ thứ ba của bài, từng câu thơ đều khắc khoải một nỗi buồn man mác. Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Khổ 2 Tràng Giang 🌠 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Khổ 4 – Mẫu 18 Các em học sinh sẽ cần đến mẫu mở bài Tràng giang khổ 4 dưới đây để tham khảo thêm cho mình những gợi ý phong phú hơn. Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi cuống quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn Tràng giang của ông. Mở Bài Tràng Giang Khổ 3 4 – Mẫu 19 Tham khảo cách viết mở bài Tràng giang khổ 3 4 dưới đây để nắm được nội dung cơ bản của một mở bài chuẩn và đầy đủ ý. Những cung bậc cảm xúc của con người thường được con người ẩn giấu qua những câu hát, giai điệu, câu thơ câu văn. Chính các nhà văn, nhà thơ thường bày tỏ nỗi lòng của mình qua các câu chữ thấm đậm tình. Huy Cận là một trong những nhà thơ như vậy. Độc giả luôn cảm nhận được tâm trạng của ông qua các bài thơ ông sáng tác. “Tràng giang” – một tác phẩm không thể không kể đến, một tác phẩm kiến người đọc phải bồi hồi trong cảm xúc của tác giả. Nhà thơ Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu muộn của mình trong đó. Bài thơ Tràng Giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với Huy Cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thái, trước nỗi buồn nhân thế. Thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả. Đặc biệt là hai khổ thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả Huy Cận với những nỗi sầu nhân thế. Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Khổ 3 Tràng Giang 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất Mở Bài Tràng Giang Khổ Cuối – Mẫu 20 Đón đọc mẫu mở bài Tràng giang khổ cuối dưới đây sẽ hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài và hoàn thiện bài viết. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc. Bài thơ “Tràng giang” được trích từ tập “Lửa Thiêng” thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang. Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng. Tiếp theo đón đọc ☀️ Mở Bài Vội Vàng Xuân Diệu ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
mở bài phân tích tràng giang